VIỆN GIÁO LÝ HỌP MẶT TRUYỀN THỐNG LẦN THỨ 10
SAĐÉC
26-01-2016
Ngày 25 tháng giêng
Thánh Phaolô Trở Lại
Lễ
kính
Lời
nguyện nhập lễ
Lạy
Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của Thánh Phao-Lô Tông Ðồ để dạy dỗ muôn dân.
Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Ðức Kitô, xin cho chúng
con hằng noi theo gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa và trở nên chứng
nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin...
Lời
nguyện tiến lễ
Lạy
Chúa, chúng con dâng lên Chúa của lễ này, xin Chúa thương chấp nhận. Nguyện xin
Thánh Thần Chúa tuôn đổ ánh sáng đức tin vào lòng chúng con, như xưa Người vẫn
soi sáng Thánh Phao-Lô Tông Ðồ, để thánh nhân loan truyền vinh quang Chúa.
Chúng con cầu xin…
Lời Tiền
Tụng các Tông Ðồ I
Lạy
Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa
mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng
con.
Lạy
Chúa là Mục Tử hằng hữu, Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các Thánh
Tông Ðồ, Chúa luôn che chở, giữ gìn để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị
lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử nhân danh Con Chúa coi sóc đoàn chiên.
Vì
thế, cùng với các Thiên thần và tổng lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần,
cùng toàn thể đạo binh thiên quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng
vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! ...
Lời
nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng
con, xin cho bí tích chúng con vừa lãnh nhận đốt lửa yêu mến trong lòng chúng
con, như xưa thánh Phao-lô tông đồ đã nhờ lửa yêu mến đó mà xả thân lo lắng cho
tất cả các giáo đoàn. Chúng con cầu xin...
Bài
Đọc trong Thánh Lễ Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại
BÀI ĐỌC I: Cv 22,
3-16
"Kêu
danh thánh Chúa, tôi chỗi dậy".
Bài
trích sách Tông đồ Công vụ.
Ngày
ấy, Phaolô nói với dân chúng: "Tôi là người Do-thái, sinh tại Tarsê xứ Cilicia, đã được nuôi nấng trong thành này, đã được đào
tạo theo chân lý lề luật cha ông dưới chân ông Gamaliêl. Tôi nhiệt thành với lề
luật cũng như hết thảy quý vị hôm nay. Tôi đã bắt bớ giết chóc đạo này, xiềng
xích và bỏ tù cả đàn ông lẫn đàn bà. Như thầy thượng tế và toàn thể hội đồng kỳ
lão đã làm chứng điều đó. Các ngài đã trao cho tôi chứng minh thư để tôi đến
kiếm anh em ở Đamas, bắt trói họ và điệu về Giêrusalem để trừng phạt.
Xảy
đến lúc đó khoảng trưa, tôi đang trên đường gần đến Đa-mas, thình lình một
luồng ánh sáng chan hoà từ trời chói rạng quanh tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe
tiếng phán bảo tôi: "Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Tôi đáp:
"Thưa Ngài, Ngài là ai?" Người trả lời: "Ta là Giêsu Nadarét mà
ngươi đang bắt bớ". Và những người cùng ở đó với tôi lúc ấy, cũng thấy ánh
sáng, nhưng không nghe tiếng Đấng nói với tôi. Tôi hỏi: "Lạy Chúa, con
phải làm gì?" Chúa liền nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, vào thành Đamas,
ở đó sẽ nói cho ngươi tất cả những gì ngươi phải làm". Nhưng vì ánh sáng
chói loà kia, tôi không còn thấy được, nên các bạn tôi cầm tay dẫn tôi vào
thành Đamas. Có một người kia tên là Anania, người đạo đức, sống theo Lề luật,
và được mọi người Do-thái ở đó kính phục, đến tìm tôi và đứng gần tôi mà nói:
"Hỡi anh Saolô, anh hãy nhìn!" Ngay lúc đó tôi nhìn thấy ông.
Và
ông nói: "Thiên Chúa cha ông chúng ta đã tiền định cho anh biết thánh ý
Người, thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng Người nói. Vậy anh phải làm chứng cho
Người trước mặt mọi người về điều anh đã thấy và đã nghe. Và bây giờ, anh còn
chần chừ gì nữa? Hãy chỗi dậy và cầu khẩn danh Người mà chịu thanh tẩy và gột
rửa mình cho sạch tội lỗi".
Đó
là lời Chúa.
Hoặc: Cv 9,
1-22
"Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?"
Bài
trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, Saolô còn mải say mê hăm doạ giết các môn đồ Chúa. Ông đến
thượng tế, xin chứng minh thư gởi đến hội đường ở Đamas, để nếu gặp ai theo đạo
ấy, bất luận nam nữ, ông bắt trói đem về Giêrusalem.
Đang
khi đi đường, lúc đến gần Đamas, bỗng nhiên một luồng ánh sáng từ trời chiếu
xuống bao phủ lấy ông, ông ngã xuống đất và nghe tiếng phán rằng: "Saolô,
Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Ông thưa: "Lạy Ngài, Ngài là ai?"
Chúa đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ; giơ chân đạp mũi nhọn thì khổ
cho ngươi". Saolô run sợ và kinh hoàng hỏi rằng: "Lạy Chúa, Chúa muốn
con làm gì?" Chúa phán: "Hãy chỗi dậy, vào thành, và ở đó người ta sẽ
nói cho ngươi phải làm gì". Những kẻ đồng hành với ông đứng lại, hoảng
hốt; họ nghe rõ tiếng mà không thấy ai. Saolô chỗi dậy khỏi đất, mắt ông vẫn mở
mà không trông thấy gì. Người ta cầm tay dẫn ông vào thành Đamas; ông ở lại đấy
ba ngày mà không thấy, không ăn, cũng không uống.
Bấy
giờ ở Đamas, có một môn đồ tên là Anania; trong một thị kiến, Chúa gọi ông
rằng: "Anania". Ông thưa: "Lạy Chúa, này con đây". Chúa
phán: "Hãy chỗi dậy và đến phố kia gọi là phố "Thẳng", và tìm
tại nhà Giuđa một người tên Saolô, quê ở Tarsê; nó đang cầu nguyện".
(Saolô cũng thấy một người tên Anania bước vào, và đặt tay trên ông để ông được
sáng mắt). Anania thưa: "Lạy Chúa, con đã nghe nhiều người nói về người
này rằng: ông đã gây nhiều tai ác cho các thánh của Chúa tại Giêrusalem; tại
đây, ông đã được các thượng tế cho phép bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh
Chúa". Nhưng Chúa phán: "Cứ đi, vì người này là lợi khí Ta đã chọn,
để mang danh Ta đến trước dân ngoại, vua quan và con cái Israel. Ta sẽ
tỏ cho nó biết phải chịu nhiều đau khổ vì danh Ta".
Anania
ra đi, bước vào nhà, và đặt tay trên Saolô mà nói: "Anh Saolô, Chúa Giêsu,
Đấng hiện ra với anh trên đường đi đến đây, sai tôi đến cùng anh, để anh được
thấy và được tràn đầy Thánh Thần. Tức thì có thứ gì như những cái vảy rơi khỏi
mắt ông, và ông được sáng mắt.
Ông
chỗi dậy chịu phép rửa, và sau khi ăn uống, ông được lại sức, ông ở lại ít ngày
cùng với các môn đồ thành Đamas. Và lập tức ông rao giảng trong các hội đường
rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Mọi người nghe rao giảng đều kinh ngạc và nói
rằng: "Há chẳng phải ông này đã bách hại những người đã cầu khẩn danh ấy
tại Giêrusalem, và cũng đã tới đây mà truy nã họ để điệu họ về cho các thượng
tế sao?"
Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 116,
1. 2
1) Toàn thể chư dân, hãy
ngợi khen Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người!
Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc
16, 15).
2) Vì tình thương Chúa dành
cho chúng ta thực là mãnh liệt. và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.
ALLELUIA: Ga 15,
16
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn các con giữa thế gian, hầu để các con
đi và mang lại hoa trái, để hoa trái các con tồn tại". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 16,
15-18
"Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp
thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: "Các con hãy đi khắp
thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ
được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo
những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm
rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên
những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh".
Đó là lời Chúa.
Về
nơi đây
ĐK: Chúng con về nơi đây
dâng ngàn tiếng ca. Chúng con về nơi đây để tạ ơn Thiên Chúa. Qua bao
tháng năm mong chờ, say sưa thánh ân vô bờ, được cùng nhau bên Chúa
thỏa lòng con ước mơ.
1. Với tiếng hát rạo
rực niềm tin, với ánh mắt đọc lời nguyện xin, chúng con dâng muôn
ngàn ý tình. Từng lời kinh hay từng cuộc sống, cùng hòa chung trong
tình hiệp nhất, nguyện dâng lên Thiên Chúa tình thương.
2. Hãy đón lấy một trời
hồng ân, hãy giữ lấy cả một mùa xuân, Chúa thương ban cho người thế
trần. Một lần ta đến dự tiệc thánh, thì đời ta no thỏa hạnh phúc,
nguồn bình an chan chứa đời ta.
KINH
DÂNG
1/ Con dâng về Thiên Chúa
đây hy lễ của một chiều xưa, ôi Con Chúa hiến mình vì yêu, đền tội cho nhân thế
trăm chiều.
ĐK:
Xin Cha thương nhận lễ vật này. Xin Cha ban hồng ân dư đầy. Lòng con vui sướng
từ đây. Con hăng say đi về muôn phương, trao đôi tay cho người mến thương, đem
tin yêu cho đời ngát hương.
2/ Đây ly rượu tấm bánh con
dâng Chúa với giọt mồ hôi, bao công khó với dòng lệ rơi cùng niềm vui giây phút
bên Ngài.
3/ Ôi bao niềm yêu mến con
con mơ ước tiến Ngài ngày đêm. Môi ca hát những lời tình thương, nguyện là
hương thơm ngát thiên đường.
Con
Dâng Lên Ngài
1. Con dâng lên Ngài niềm
cảm mến vô biên. Con dâng lên Ngài ôi trái tim dịu hiền.
2. Con dâng lên Ngài trọn
thân xác tâm tư. Đã bao nhiêu lần ghi dấu chân mịt mờ.
3. Con dâng lên Ngài niềm
tin đã bao phen. Lung lay phiêu dạt xao xuyến trên dòng đời.
4. Con dâng lên Ngài tình
yêu lỡ đam mê. Rong chơi xa lạc quên mất đi đường về.
5. Con dâng lên Ngài lời
đoan kết tương lai. Xin cho con được luôn tín trung cùng Ngài.
ĐK:
Chúa ơi! Tình Ngài cao hơn Thái sơn chứa chan bao tình mến thương.
VINH
QUANG NHỮNG BƯỚC CHÂN
ĐK: Vinh quang những bước
chân đi truyền rao Tin Mừng cứu độ, cho mọi người, khắp mọi nơi. Vinh quang
những bước chân đi truyền rao Tin Mừng cứu độ, cho mọi người, khắp muôn nơi.
1/ Người về nơi thôn quê,
người về nơi thị thành, những bước chân rộn ràng, loan báo tin bình an cho muôn
nơi. Người về nơi hang sâu, người về nơi núi cao, những bước chân rộn ràng,
loan báo tin bình an cho muôn người.
2/ Người truyền rao yêu
thương. Người dẹp tan hận thù, những bước chân rộn ràng, loan báo tin bình an
cho muôn nơi. Người truyền rao tin vui. Người dẹp tan lắng lo. những bước chân
rộn ràng, loan báo tin bình an cho muôn người.
3/ Người đã đem tin yêu. Người sưởi ấm cuộc
đời cho muôn nơi. những bước chân rộn ràng, loan báo tin bình an cho muôn nơi.
Người dọi chiếu ánh sáng. Người dẹp tan tối tăm, những bước chân rộn ràng, loan
báo tin bình an cho muôn người.
LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
LỄ
THÁNH PHAOLÔ TĐ TRỞ LẠI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, rao
giảng Tin Mừng cho các dân tộc trên thế giới là bản chất của Hội Thánh. Ý thức
bổn phận truyền giáo của mình, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:
1. Chúa là viên đá bị thợ xây loại bỏ/ nhưng đã trở thành
nền tảng của Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi Kitô hữu /
cũng trở thành những viên đá sống động / để xây dựng Hội Thánh ở trần gian.
2. Giới thiệu Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa / là
trách nhiệm của từng người Kitô hữu / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho các các tín hữu / biết nhiệt thành góp công xây dựng một
thế giới tốt đẹp hơn / để Hội Thánh được dể dàng loan Tin Mừng bình an của
Chúa.
3. Từ hơn hai ngàn năm nay / lúc nào cũng có nhiều người
quảng đại đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô / hy sinh cả cuộc đời cho việc
truyền giáo / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em
ấy luôn được bình an / và tìm được niềm vui trong đời sống chứng nhân của mình.
4. Rao giảng Tin Mừng bằng đời sống là lối rao giảng hữu
hiệu nhất/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên
trong Gia Đình Viện Giáo Lý chúng ta / biết dùng đời sống bác ái yêu thương và
phục vụ hết lòng / mà giới thiệu Chúa cho những người đang sống chung quanh
mình, theo gương Thánh Phaolô Vị Tông Đồ dân ngoại.
Chủ tế: Lạy
Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn ghi lòng tạc dạ lời quả quyết của Thánh
Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”, để trong đời sống đức
tin hằng ngày, chúng con cố gắng dùng đời sống thấm nhuần tinh thần Tám mối
phúc thật mà làm tròn sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa đã trao ban. Chúa hằng
sống và hiển trị muôn đời. Amen.
TÂM TÌNH VỚI ĐỨC CHA MICAE
VỊ CHỦ CHĂN NHÂN HẬU
Viện
Giáo Lý Thánh Phaolô được ĐC. Micae Nguyễn Khắc Ngữ sáng lập năm 1971 có trụ sở
tại Đài Đức Mẹ Tân Hiệp Kiên Giang.
Viện
Trưởng tiên khởi là Cha Phaolô Nguyễn Trọng Tri. Sau 1 năm trao lại cho Cha
Augustinô Vũ Hồng Đức có Cha Đaminh Vũ Hồng Nho làm Giám Đốc và Thầy Giám Luật
Giuse Phạm Hồng Nhật.
Mỗi
năm tuyển sinh 1 lần. Khoá VGL là 3 năm ra trườmg đi giúp xứ làm thày kẻ giảng.
Lúc này mỗi người tự định hướng ơn gọi của mình. Có thể đi tu làm LM hay đi tu
dòng hoặc trở về làm tông đồ giáo dân.
Sau
biến cố 30-04-1975 VGL chiêu sinh được 4 khoá. K.1 ra trường giúp xứ được 1
năm. K.2 vừa học xong 3 năm. K.3 và K.4 còn dang dở…
Nhớ
lại những kỷ niệm với ĐC Micae là lòng biết ơn với người cha nhân hậu luôn khôi
hài dí dỏm, hết lòng thương yêu các tu sinh chủng sinh. Những lời nói ví von
của Ngài gây ấn tượng khó quên:
Hồi
đó chúng tôi là những thiếu niên ở các xứ đạo miền Cái Sắn mới gia nhập VGL là
những chú tu sinh còn ngây ngô “hai lúa” lắm. ĐC đến thăm và gặp gỡ Ngài nói :
“Coi chúng mày ngơ ngáo như bố vợ phải đấm”.
“Chúng
mày được lấy vài anh làm LM là tao mừng rồi.”
CGĐ
thưa với ĐC : Con thấy các chú nó đạo đức sốt sáng lắm. Chắc mai này nó làm LM
hết quá. ĐC bảo: “Chúng mày đạo đức khô như ngói mà đòi làm LM.
Thế mà theo thời gian thăng
trầm theo hoàn cảnh đất nước. Sau biến cố 75 VGL đã phải đóng cửa. . . các tu
sinh mạnh ai nấy sống cho tương lai của mình. Và cho tới ngày hôm nay tạ ơn
Chúa thành quả vượt quá sự mong ước của ĐC Micae là được tới “8 viên ngói đã
phủ rêu” làm LM. Và hơn 100 cựu GLV trên khắp nẻo đường truyền giáo là những
tông đồ giáo dân tốt, đã và đang sống những gì mà họ đã được hấp thụ tại mái
trường VGL với phương châm : KHOẺ – SÁNG – THÁNH.
DANH SÁCH VGL HỌP MẶT NGÀY TRUYỀN THỐNG
SAĐÉC 26.01.2016
TS
|
TP
|
HỘ VÀ TÊN
|
ĐỊA CHỈ
|
SỐ ĐT
|
N.SINH
|
CMND
|
XK
|
GHI CHÚ
|
1
|
LM
|
VŨ HỒNG NHO
|
Bờ Bao
|
0918.880.750
|
1945
|
|
1
|
|
2
|
LM
|
NGUYỄN TRỌNG KHANH
|
Tân Thành,
3b
|
0166.917.8401
|
1945
|
|
2
|
|
3
|
LM
|
VŨ ĐỨC HƯỚC
|
Kim Hoà,
G1
|
916754918
|
1945
|
|
3
|
|
4
|
LM
|
PHẠM HỒNG NHẬT
|
Hải Hưng, C1
|
0919.002.141
|
1951
|
|
4
|
|
5
|
LM
|
VŨ HOÀNG ANH
|
N.riêng, CT
|
0988.210.678
|
1945
|
|
5
|
|
6
|
LM
|
TRƯƠNG TRUNG HƯNG
|
Vinhsơn, O1
|
O918348859
|
1950
|
|
6
|
|
7
|
Lm
|
TRƯƠNG CÔNG ĐAM
|
Thái Hòa, Rivera
|
0934.571.444
|
1955
|
|
7
|
|
8
|
Lm
|
NGUYỄN TIẾN TÂM
|
Thánh Gia, 1b
|
O973297393
|
1956
|
370605145
|
8
|
|
9
|
Lm
|
ĐINH VIẾT HUYNH
|
Truyền Tin, 8a
|
0917.132.988
|
1956
|
|
9
|
|
10
|
Lm
|
TRẦN HỮU HẠNH
|
TP HCM
|
O989282445
|
1957
|
|
O1
|
|
11
|
1K1
|
ĐINH VIẾT MINH
|
Thạnh An
|
O122586079
|
1956
|
|
10
|
|
12
|
1K2
|
NGUYỄN VĂN QUÝ
|
K.E (Cầu Vượt)
|
O1648690265
|
|
|
11
|
|
13
|
1K3
|
VỢ
|
K.E (Cầu Vượt)
|
|
|
|
12
|
|
14
|
1K4
|
CON
|
K.E (Cầu Vượt)
|
|
|
|
13
|
|
15
|
1K5
|
NGÔ VĂN HÒA
|
K.F2
|
O1654544682
|
|
|
14
|
|
16
|
1K6
|
VŨ MAI TRUNG
|
An Sơn E1
|
O919428603
|
|
|
15
|
|
17
|
1K7
|
VÕ VĂN VÂN
|
Năng Gù
|
O919498602
|
|
|
16
|
|
18
|
1K8
|
VỢ
|
Năng Gù
|
|
|
|
17
|
|
19
|
1K9
|
ĐẶNG NGỌC THIÊN
|
K.B1
|
O1275875293
|
|
|
18
|
|
20
|
1K10
|
VỢ
|
K.B1
|
|
|
|
19
|
|
21
|
1K11
|
CON
|
K.B1
|
|
|
|
20
|
|
22
|
1K12
|
TRẦN MINH TÂM
|
K.B2
|
O932020880
|
|
|
21
|
|
23
|
1K13
|
VỢ
|
K.B2
|
|
|
|
22
|
|
24
|
1K14
|
PHẠM ĐÌNH ĐÓA
|
An Sương, Sg
|
O1668585039
|
|
|
O2
|
|
25
|
1K15
|
VỢ
|
An Sương, Sg
|
|
|
|
O3
|
|
26
|
2K0
|
PHẠM VĂN ĐIỆP
|
427 HV, TX SĐ
|
O982291191
|
|
|
O4
|
|
27
|
2K0
|
NGÂN
|
428 HV, TX SĐ
|
|
|
|
O5
|
|
28
|
2K1
|
NGUYỄN CAO THIÊN
|
ĐĐM TH
|
O994488620
|
|
|
23
|
|
29
|
2K2
|
NGUYỄN THỊ HOA(VỢ)
|
ĐĐM TH
|
|
|
|
24
|
|
30
|
2K3
|
NGUYỄN NGỌC ĐƯỜNG
|
Vô Nhiễm O2
|
O944277327
|
|
|
25
|
|
31
|
2K4
|
ĐỖ KIM CHI(VỢ)
|
Vô Nhiễm O2
|
|
|
|
26
|
|
32
|
2K5
|
NGUYỄN DIỆU ÁI(CON)
|
Vô Nhiễm O2
|
|
|
|
O6
|
|
33
|
2K6
|
NGUYỄN VĂN NGÔN
|
ĐĐM TH
|
O988907388
|
|
|
27
|
|
34
|
2K7
|
ĐINH VĂN THẾ
|
Thái Lai
|
O1237105125
|
|
|
28
|
|
35
|
2K8
|
NGUYỄN VĨNH THỊNH
|
TP HCM
|
O903303123
|
|
|
O7
|
|
36
|
2K9
|
VỢ
|
TP HCM
|
|
|
|
O8
|
|
37
|
3K1
|
TRẦN VĂN LỢI
|
RG
|
O1233340449
|
|
|
29
|
|
38
|
3K2
|
VỢ
|
RG
|
|
|
|
30
|
|
39
|
3K3
|
NGUYỄN VĂN TẬP
|
E1
|
O1655214196
|
|
|
31
|
|
40
|
3K4
|
VỢ
|
E1
|
|
|
|
32
|
|
41
|
3K5
|
NGUYỄN VÕ DŨNG
|
Gia Viên, BH
|
|
|
|
O9
|
|
42
|
4K1
|
BÙI VĂN MƯU(LƯU)
|
Truyền Tin 8a
|
O984409320
|
|
|
33
|
|
43
|
4K2
|
VỢ
|
Truyền Tin 8a
|
|
|
|
34
|
|
44
|
4K3
|
NGUYỄN NGỌCTHANH
|
Bờ Bao
|
O1204804131
|
|
|
35
|
|
45
|
4K4
|
NGUYỄN THỊ ĐỆ
|
Bờ Bao
|
|
|
|
36
|
|
46
|
4K5
|
ĐỖ ĐÌNH CHIẾN
|
Núi Sập
|
O1682534026
|
|
|
37
|
|
47
|
4K6
|
VŨ CHÍ BÌNH
|
Đắc Nông
|
O972102060
|
|
|
O10
|
|
48
|
4K7
|
VỢ
|
Đắc Nông
|
|
|
|
O11
|
|
49
|
4K8
|
TRIỆU VĂN HÒA
|
Phương Lâm
|
O906507443
|
|
|
O12
|
|
50
|
4K9
|
PHẠM DUY LỄ
|
Phúc Lâm, BH
|
O938633527
|
|
|
O13
|
|
51
|
4K10
|
HOAN
|
TP HCM
|
O913141870
|
|
|
O14
|
|
52
|
4K11
|
TRẦN TÂN HÁN
|
Củ Chi
|
O163633456
|
|
|
O15
|
|
53
|
OK
|
Ô.TIẾN (C.HUYNH)
|
8a
|
|
|
|
38
|
|
54
|
OK
|
Ô.ĐƯỜNG(C.TÂM)
|
1b
|
|
|
|
39
|
|
55
|
OK
|
ÔC.THI(C.TÂM)
|
1b
|
|
|
|
40
|
|
56
|
OK
|
DUY THÀNH(C.TÂM)
|
Phố K.8
|
|
|
|
41
|
|
LÀM VIỆC TÔNG ĐỒ MỘT CÁCH SỐNG ĐẠO
Trần Duy Nhiên
Nói
đến nếp sống đạo của người giáo dân thì không thể nào không nói đến việc tông
đồ. Từ ngày học giáo lý vỡ lòng, em bé đã được dạy phải ‘làm việc tông đồ’. Các
Hội Đoàn Công Giáo từ thiếu nhi cho đến phụ lão đều nhấn mạnh đến việc tông đồ.
Trong một gia đình đạo đức, cha mẹ thường nhắc nhở con cái phải làm việc tông
đồ. Không làm việc tông đồ, người giáo dân không cảm thấy mình sống đạo một
cách đúng mức.
Thế
nhưng, trong quá trình làm việc tông đồ, Kitô hữu thấy tính chất đa dạng của
công tác đó, và tự đặt cho mình một câu hỏi: “Những việc nào là việc tông đồ?”
Ngoài việc khuyên nhủ ai đó đi xưng tội hoặc đi nhà thờ; ngoài việc giúp một
cặp gia đình rối gặp linh mục để giải quyết tình trạng của mình (mà thường thì
điều này vượt quá khả năng của một giáo dân), còn việc gì nữa chăng? Giúp đỡ
một ai đó về tinh thần và vật chất có phải là việc tông đồ không? Cầu nguyện
cho một người có phải là việc tông đồ không? Và còn việc nào khác có thể gọi là
việc tông đồ?
Ngoài
ra, yếu tố nào giúp biến một công việc đạo (cầu nguyện) hay việc đời (nhân đạo)
thành ‘việc tông đồ’? Một bác sĩ công giáo đi chữa bệnh miễn phí cùng với một
đồng nghiệp phật giáo; người ấy làm công tác xã hội hay công tác tông đồ? Một
ngày tĩnh tâm một mình nơi vắng lặng có thể trở thành việc tông đồ không? Trong
cuộc sống Kitô hữu, mỗi ngày, mỗi tuần hay mỗi tháng, phải dành ra bao nhiêu
thì giờ để làm việc tông đồ?
Những
câu hỏi này theo tôi nhiều năm tháng. Một mặt, tôi thấy mình có quá ít thì giờ
để làm việc tông đồ; mặt khác, không biết mình phải làm việc tông đồ gì. Nội
việc đi tìm cho ra một ‘việc tông đồ’ thích hợp với khả năng và điều kiện của
mình cũng là điều không phải dễ rồi!
Thế
rồi một hôm bỗng nảy ra trong đầu tôi ý tưởng này: “Việc tông đồ ư? Đấy là
những việc mà các tông đồ đã làm! Các ngài làm những việc gì? Suốt thời gian
Chúa Giêsu tại thế, các ngài chỉ có việc ở cạnh Chúa mà không làm gì đặc biệt
cả. Các ngài ăn, ngủ, đi đó đây, đánh cá, nộp thuế, thậm chí du ngoạn trên núi
Tabor: Đấy, việc (của) tông đồ là như thế đấy!”
Suy
nghĩ này đưa tôi đến một khám phá rất sơ đẳng nhưng rất quan trọng, giúp tôi
giải quyết những vấn nạn mà mình tự đặt ra cho bản thân trong bao nhiêu năm:
“Vì các ngài là tông đồ nên mọi việc các ngài làm đều là việc tông đồ. Trái
lại, những người không phải là tông đồ thì bất cứ công việc nào của họ, dù tốt
lành đến đâu, cũng không phải là việc tông đồ.” Từ đó, tôi thấy rằng vấn đề chủ
yếu cho đời sống đạo của tôi không phải là ‘làm việc tông đồ’ mà là ‘làm tông
đồ’. Nếu tôi là tông đồ thì mọi việc tôi làm sẽ là việc tông đồ; bằng không,
tôi có ‘đem hết của cải mà bố thí cho người nghèo, đem thân tôi mà thiêu đốt
cho người chịu bất công’ thì đó cũng chỉ là việc nhân đạo chứ không phải là
việc tông đồ.
Nhưng
làm thế nào để trở nên một tông đồ? Các tông đồ là những người đồng hành với
Chúa Giêsu. Muốn trở thành tông đồ, tôi phải luôn luôn ở bên cạnh Chúa Giêsu.
Đó là khởi điểm cho mọi việc tông đồ trong cuộc đời Kitô hữu của mình.
Đức
tin dạy rằng Chúa ở khắp mọi nơi, và Lời Chúa Kitô trong Kinh Thánh đã nói rõ:
“Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Điều duy nhất tôi
cần làm, ấy là CẢM NHẬN được sự hiện diện của Chúa Kitô bên cạnh tôi, đi trước
tôi, đối diện với tôi... Nếu tôi sát cánh với ngài, tôi sẽ là tông đồ của Ngài.
BIẾT Ngài hiện diện thì không có ích gì cho tôi cả. Đấy chỉ là một ‘kiến thức’
mà tôi xếp vào tủ sắt bộ nhớ của mình rồi khóa cánh cửa lại, và chỉ lấy ra lúc
nào cần nói chuyện đạo. Điều tôi cần phải làm không chỉ là ý thức mà còn là CẢM
NHẬN sự hiện diện của Ngài.
Tôi
bắt đầu tập thói quen dành vài phút lắng đọng đầu ngày để CẢM NHẬN sự hiện diện
của Chúa Giêsu, làm sao để có cái cảm giác ‘như thấy Đấng Vô Hình’. Và rồi
trước mỗi công việc, trước kinh nguyện ban sáng, trước dấu thánh giá tại bàn
ăn, trước khi bước ra khỏi nhà, trước khi viết một điều gì, trước khi nói với
ai một lời..., tôi tập thói quen trở về với CẢM NHẬN đó (chỉ mất không
đầy 30 giây). Tôi cũng tập thực hành trở lại những ‘lời
nguyện tắt’ mà ngày xưa tôi được dạy nhưng không kiên trì thực thi vì nghĩ rằng
vô ích...Và để CẢM NHẬN ấy trở
nên gần như một cảm giác thể lý trong mình, lâu lâu tôi dành một ngày đến nơi
thanh vắng hoặc ngồi im lặng một giờ trước T.Thể C.Giêsu.
Đôi
lúc, có người ngỡ tôi ‘điên’, khi bắt gặp tôi ngồi nói chuyện một mình với Đấng
Vô Hình! Tuy nhiên, tôi biết rằng nếu có Chúa Kitô bên cạnh, thì việc gì cũng
trở thành việc tông đồ, như thánh Phaolô khẳng định:“Dù ăn, dù uống, hay làm
bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”(1 Cr 10,31)
Ồ,
tôi chưa làm việc tông đồ 24 trên 24 như lòng mong ước đâu! Mỗi ngày mươi phút
mà còn chưa được, và chắc chắn tôi sẽ phải tập mãi cho đến mãn đời; nhưng dù
sao khám phá này đã giúp tôi thống nhất đời sống Kitô hữu của mình. Điều tôi
muốn chia sẻ, ấy là bạn có thể bắt đầu ‘làm việc tông đồ’ ngay giây phút này,
mà không cần phải ‘làm’ một điều gì thêm. Chỉ việc CẢM NHẬN sự hiện diện của
Giêsu bên cạnh bạn. Chỉ có thế thôi. Cuộc đời này dường như chẳng có gì thay
đổi cả, nhưng thực sự bắt đầu thay đổi rồi; bởi vì khi bạn trở thành Tông Đồ
của Chúa Giêsu, thì Ngài bắt đầu biến đổi cuộc đời này từ bên trong của bạn.
Vì
vậy, trước khi kết thúc bài này, xin bạn dành 30 giây để CẢM NHẬN, trong từng
hơi thở, trong từng thớ thịt của mình, rằng Chúa Kitô đang cùng đọc bài này với
bạn, và do đó bạn đang làm ‘việc tông đồ’ bên Ngài. Xin bạn trình lên Ngài một
lời nguyện tắt:
“Maranatha! Lạy Chúa, Chúa đã đến; xin hãy
tiếp tục ngự đến trong con!”
Rồi nở một nụ cười với Ngài!
Đôi nét về vùng đất con người Sa Đéc
- Người đăng: Huỳnh Tấn Thông
Thị
xã Sa Đéc là đô thị loại 3 của tỉnh Đồng Tháp, diện tích tự nhiên 59,5km2, dân
số 103.211 người, có 09 xã- phường, địa hình bằng phẳng và thấp, hệ thống sông
ngòi, kênh rạch chằng chịt. Về mặt giao thông thuận lợi cả đường bộ lẫn đường
thuỷ (sông Tiền, sông Sa Đéc, Quốc lộ 80, Tỉnh lộ ĐT 848, ĐT 851, ĐT 852, ĐT
853…) có điều kiện để liên kết và hợp tác phát triển với các huyện của tỉnh
như:
Lấp
Vò, Lai Vung, Châu Thành, Cao Lãnh… các trung tâm kinh tế phát triển của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Rạch Giá…) và cả nước bạn Campuchia. Từ thành phố Hồ Chí Minh đến Sa Đéc là 147
km, từ Sa Đéc đến thành phố Cao Lãnh là 27 km. Để đến Sa Đéc, du khách có thể
đi bằng ô tô trên Quốc lộ 1, qua cầu Mỹ Thuận rẽ về hướng tay mặt để xuôi Quốc
lộ 80 chừng 15 km. Cũng có thể đi trên Quốc lộ 1, đến ngã ba An Thới Trung
(huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) rẽ vào Quốc lộ 30 đến thành phố Cao Lãnh rồi
qua phà sông Tiền để đi trên đường ĐT848 khoảng 27 km là đến thị xã Sa Đéc.
Từ rất xa xưa, nơi đây là vùng đất trũng, nước
ngập quanh năm khí hậu ẩm ướt, dân cư thưa thớt…. Địa danh “Sa Đéc” là âm tiếng
Việt của chữ “Phsar- Dek” là tên của một vị thuỷ thần mà đồng bào Khơ- mer tôn
sùng, từ này còn có nghĩa là chợ Sắt; theo truyền thuyết dân gian thì Sa Đéc là
tên của một nàng con gái xinh đẹp, vì tình yêu bất thành nên xuất gia đầu Phật,
sau lại trở về lập chợ, nhân dân tưởng nhớ đặt tên của nàng làm chợ cho đến
ngày nay.
Vào thế kỷ XVII đã có nhiều người Việt đến đây
lập nghiệp, hầu hết là dân các tỉnh Quảng Yên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, cùng với những người Hoa “phản Thanh phục Minh” và một số ít
người Khơ- mer mà hình thành nên cộng đồng dân cư. Buổi đầu khai mở ấy họ phải đấu
tranh với thiên nhiên, thú dữ, bệnh tật để khai phá, mở mang, canh tác… vì vậy,
đã có sự gắn kết cộng đồng, đùm bọc lẫn nhau, yêu thích tự do và gắn bó với
mảnh đất mà họ đã dày công vun đắp, xây dựng.
Với địa thế khá đặc biệt, rất thuận lợi về
nhiều mặt và là địa bàn chiến lược nên Sa Đéc đã được chúa Nguyễn chọn làm
trung tâm của vùng Đông Khẩu Đạo (1757). Từ đó, cộng đồng dân cư Kinh - Khơ mer
- Hoa càng đoàn kết, gắn bó nhau hơn để khai thác, làm ăn, mua bán… chẳng bao
lâu sau mà thành lập trên 60 thôn; dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ
điểm dân cư mới được hình thành, đã bắt đầu xuất hiện phố thị mua bán ngày một
tấp nập và dần dần trở thành một trong vài thị tứ quan trọng của vùng đồng bằng
sông Cửu Long lúc bấy giờ. Bên cạnh những đình, chùa, miếu mạo của người Việt
thì cũng xuất hiện những nơi thờ tự của người Hoa; nhiều nghề thủ công truyền
thống được phát triển, nhiều mặt hàng có giá trị được định hình; các lớp học
chữ Nho đã có nhiều sĩ tử theo học…
Khi
thực dân Pháp xâm chiếm Nam kỳ, họ đã khai thông tuyến đường thuỷ Sài Gòn - Nam
Vang, tàu hơi nước của họ đã đi ngang Sa Đéc. Cả xứ Nam kỳ hồi ấy chủ yếu đi
lại bằng đường thuỷ, hệ thống sông ngòi chằng chịt đã nối Sa Đéc với các địa
phương trong vùng, Sa Đéc trở thành đầu mối tập kết hành khách và hàng hóa vận
chuyển đi các nơi. Khi giao thông đường bộ phát triển, con đường nối liền Sài
Gòn- Hà Tiên được hình thành lại đi ngang qua Sa Đéc. Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy
vị trí khá thuận lợi về nhiều mặt để Sa Đéc phát triển từ rất sớm.
Là vùng đất mới nhưng đạo lý, truyền thống,
bản sắc của dân tộc vẫn tiếp tục được vun bồi, trường Phủ Tân Thành (có từ năm
1832) là cái nôi giáo luyện nên những Nho gia, nhà khoa bảng của Sa Đéc và vùng
phụ cận; sau này, khi có trường Sơ học (năm 1885) cho đến lúc dạy chữ Quốc ngữ
… thì ngày càng có nhiều trí thức có tinh thần dân tộc mà tiêu biểu như kỹ sư
Lưu Văn Lang. Cũng tại mảnh đất Sa Đéc này, đã ươm mầm cho một nữ sĩ Pháp (bà
Marguerite Duras) đạt giải Goncourt Pháp quốc. Sa Đéc còn được biết đến như một
cái nôi của nghệ thuật sân khấu cải lương; của những nghệ nhân kim hoàn, hoa
kiểng; của những văn nhân, thi sĩ, nhà báo buổi đầu có chữ Quốc ngữ; phụ nữ Sa
Đéc giỏi nữ công gia chánh, bánh trái, thêu thùa đã làm rạng danh nhiều nữ lưu
bên dòng Sa giang….
Sa Đéc cũng là nơi gặp gỡ của nhiều nhân sĩ,
nho gia yêu nước trong phong trào Đông Du, Duy Tân; của những chiến sĩ cộng sản
trong tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội… để dẫn đến việc hình
thành nên tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam tại Sa Đéc và lãnh đạo phong trào yêu
nước, đấu tranh giành chánh quyền về tay nhân dân năm 1945.
Người Sa Đéc rất hào sảng, luôn rộng mở tấm
lòng, khoan dung độ lượng để cùng chung sức xây dựng quê hương. Quá trình hình
thành và phát triển, Sa Đéc đã hun đúc nên những truyền thống quí báu, đó là:
truyền thống hiếu khách, truyền thống hiếu học, truyền thống văn hóa, truyền
thống cách mạng…
Vượt qua những gian nguy thử thách của chiến
tranh, quân- dân Sa Đéc đã anh dũng chiến đấu và giành lấy thắng lợi bằng mùa
xuân 1975 để cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khôi phục
kinh tế-văn hóa-xã hội sau chiến tranh, Sa Đéc đã giành được nhiều thành tựu để
bước vào công cuộc đổi mới và tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa
đất nước. Một Sa Đéc mến yêu và trù phú luôn thôi thúc và vẫy gọi những người
con của quê hương, của mọi miền Tổ quốc cùng chung sức chung lòng vì một Sa Đéc
phát triển ổn định và bền vững….
Nguồn tin: Trang tin Thành phố Sa Đéc
Họ Đạo Tân Quy
Tên
cũ: Tân Quy
Địa
chỉ: 18 Lê Lợi, Khóm 1, Phường 3, Thị Xã Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp.
Đt:
Bổn
mạng:
Chầu
lượt:
Giáo
dân: 1338 người
Họ
đạo Tân qui gồm có:
1.
Tân Qui: 18 Lê Lợi, khóm 1 phường 3, thị xã Sađéc, tỉnh Đồng Tháp.
2.
Cái Bè : xã Tân Khánh Đông, thị xã Sađéc, tỉnh Đồng Tháp.
Các
linh mục đầu tiên:
1.
Jean Bousseaux (M.E.P)
2.
Phanxicô Xaviê Huỳnh Công Triệu
3.
Phêrô Nguyễn Văn Đỏ
4.
Philipphê Võ Phước Thạnh
5.
Phêrô Lê Văn Ngộ
6.
Phêrô Phan Văn Trọng
7.
GBt. Dương văn Oai
8.
Phêrô Đặng Thành Tiên
9.
GBt. Dương Công Truyền
Linh
mục đương nhiệm: Micae Lê Vĩnh Khương
Tân
Qui:
Trước đây do các cha Thừa Sai Paris lập các
giáo điểm từ Tân Qui đến Bắc Cao Lãnh vào khoảng năm 1914 đến năm 1925 đã có
Nhà thờ ở tại Cái Bè (hiện nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thị xã Sađéc).
Ngày 26/9/1962 linh mục Phil.Võ Phước Thạnh
xuất quỹ nhà chung 100.000đ cho xây dựng Nhà thờ Tân Qui.
Ngày 22.12.1963 Đức Giám Mục Antôn Nguyễn Văn
Thiện lập Thánh Bổn Mạng là "Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời" và làm phép Nhà
thờ.
Mua chuông Tây hết 15.000đ, đóng bàn ghế hết
3.000đ.
Ngày 10/7/1985 Đức Giám Mục Giacôbê bổ nhiệm
linh mục Micae Lê Vĩnh Khương làm cha sở.
Ngày 14/9/1985 Đức Giám Mục Giacôbê Nguyễn Văn
Mầu đến Tân Qui cử hành nghi thức trao quyền cha sở, có cha Hạt Trưởng Sađéc
Đặng Thành Tiên.
Năm 1995 Nhà thờ được chỉnh trang lại.
Nhà
thờ Cái Bè:
Năm 1925 có Nhà thờ cây, mái ngói, lót sàn
ván, có chuông Tây, giá khoảng 2.500đ.
Năm 1947 phong trào kháng chiến, chuông mất,
Nhà thờ sụp lở, linh mục Phaolô Nguyễn Văn Đỏ cho dỡ Nhà thờ Cái Bè.
Tháng 6/1953, linh mục Phil. Võ Phước Thạnh
đến Cái Bè thăm, kiểm lại còn khoảng 20 giáo dân.
Tháng 12/1953, các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế
đến giúp (Phaolô Có, GBt. Vàng...) được 30 giáo dân trở lại.
Hiện Cái Bè còn một ít đất nhà chung nhưng
không còn quyền sử dụng vì không ai trả lại cho Nhà thờ.
Vùng Cái Bè hiện có khoảng 166 giáo dân ở rải
rác các xã Tân Khánh Đông (T.x Sađéc), xã Tân Khánh Trung (huyện Lấp Vò)..
Họ đạo Tân Qui và Cái Bè hiện sinh hoạt tại
nhà thờ Tân Qui, có một ban bác ái chăm lo thăm viếng và giúp đỡ giáo dân trong
họ.
Nhà thờ Tân Qui đang xin sử dụng lại khu nhà
thời gian qua Nhà Nước quản lý làm trường học.
Khi
có điều kiện xin tái lập Nhà thờ Cái Bè cho số giáo dân vùng Cái Bè.
Họ Đạo Sa Đéc
Tên
cũ: Nhà Thờ Sa Đéc
Ấp:
273/3, K. Hòa Khánh, P. 2, Thị Xã Sa Đéc, Tỉnh: Đồng Tháp
Đt:
0673 862663
Bổn
mạng: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Chầu
lượt: CN VIII TN
Giáo
dân: 4345 người
Gốc
tích
LƯỢC
SỬ HỌ ĐẠO SA ĐÉC
"Uống
nước nhớ nguồn".
Vào
khoảng năm 1882, một số gia đình Công Giáo di cư đặt chân đến mảnh đất Sa Đéc
và hình thành nên Họ Đạo Sa Đéc ngày nay.
Cha
Contantinus Janin - Lúc ấy (1885 - 1900), Cha Contantinus Janin đang phục vụ
Giáo Phận Nam Vang được chuyển về để lo cho một số gia đình Công Giáo tại Sa
Đéc và thúc đẩy công việc truyền giáo.
*
Nhà thờ lúc ấy là Nhà thờ vách lá hướng về bờ sông đã được Cha dựng lên cặp
theo Quốc lộ 80 ngày nay để cho giáo dân có chỗ cầu nguyện và dự lễ.
* Trong khoảng thời gian cha trông coi họ đạo,
Cha đã trùng tu lại Nhà thờ kiên cố hơn. Nhà thờ tường xây 4 bên, sườn gỗ thao
lao, trần bằng tre và vôi.
*
Năm 1900 Cha Contantinus Janin qua đời, thi hài cha được an táng trong ngôi Nhà
thờ do Cha khởi công xây dựng.
Cha
Lozer - Vào khoảng năm 1922, Cha Lozer được chuyển về Sa Đéc.
*
Trong thời gian cha trông coi Họ đạo, Cha đã xây dựng tháp chuông (nay vẫn còn)
và Cha mua năm quả chuông cho Họ đạo.
*
Trong thời gian này, Nhà Thờ cũng không có gì thay đổi.
Cha
Buseux - Vào khoảng năm 1930, Cha Buseux được chuyển về trông coi họ đạo Sa
Đéc.
*
Trong thời gian này Nhà thờ không có gì thay đổi.
*
Biến cố có ý nghĩa là Cha chuộc tượng Đức Mẹ Ngà và xây dựng núi Đức Mẹ.
*
Cha qua đời tại Sa Đéc năm 1936.
Cha
Px Huỳnh Công Triệu - Ngay sau khi Cha
Buseux mất, Cha Px Huỳnh Công Triệu được chuyển về nhận nhiệm sở tại họ đạo Sa
Đéc.
*
Vài tháng sau Toà Giám Mục gởi Cha Bartolomêô Trần Quang Nghiêm về làm phụ tá
cho Cha Px Triệu.
* Cha Bartolomêô Nghiêm làm phụ tá tại Sa Đéc
được một năm 1942-1943 thì Toà Giám Mục gởi Cha Phêrô Mai Thành Đỏ về làm Cha
phụ tá thay cho Cha Bartolomêô Nghiêm về Sóc Trăng.
*
Năm 1943 Cha Phêrô Mai Thành Đỏ đi phục vụ vùng kháng chiến (Việt Minh). Cha
Phêrô Huỳnh Tiến Bộ về làm cha phụ tá thay Cha Phêrô Đỏ. Cha Phêrô Bộ làm phụ
tá tại Sa Đéc từ năm 1943-1950.
Cha
Philipphê Võ Phước Thạnh - Ngày
15-08-1953, Cha Px Huỳnh Công Triệu qua đời. Toà Giám Mục chuyển Cha Philipphê
Võ Phước Thạnh về nhiệm sở Sa Đéc.
*
Trong thời gian này giáo dân Sa Đéc được chăm sóc bởi hai cha. Philipphê Thạnh
và Cha phụ tá Phêrô Bộ.
*
Năm 1959 Cha Giuse Lâm Quang Bỉ được chuyển về làm Cha phụ tá thay cho Cha
Phêrô Bộ.
*
Trong thời gian làm Cha sở Họ đạo Sa Đéc, Cha Philipphê Thạnh đã xây dựng Nhà
Thờ Tân Quy và tặng một quả chuông cho Tân Quy.
Cha Phêrô Lê Văn Ngộ - Năm 1965, Cha Phêrô Lê
Văn Ngộ được chuyển về nhận nhiệm sở Sa Đéc thay cho Cha Philipphê Thạnh về
Phước Hảo.
* Cha Phêrô Ngộ là một người cha quan tâm nhiều
đến việc giáo dục con người về phần thể xác cũng như linh hồn. Cha bắt tay vào
việc xây dựng trường học và xây dựng Nhà thờ mới trên nền Nhà thờ cũ.
*
Trong chín năm làm Cha sở (1965-1974) Cha Phêrô Ngộ đã làm cho bộ mặt của Họ
đạo Sa Đéc có nhiều thay đổi, đặc biệt là cơ sở hạ tầng. Cha đã xây dựng một
trường Trung - Tiểu học mà hiện nay vẫn còn thuộc quyền quản lý của nhà nước.
Cha cũng cho xây dựng Nhà Đức Mẹ Ngà mà hiện nay vẫn còn. Cha còn chuẩn bị cho
xây dựng lại Nhà thờ mới, nhưng công trình mới thực hiện được bước hởi đầu thì
đến biến cố 1975. Cha phải rời nhiệm sở bỏ lại Nhà thờ đang dang dở (mới đặt
được móng) để về An Hiệp (Cầu Đôi)
*
Năm 1968, Cha Giuse Pham Đình Kế được chuyển về làm phụ tá cho Cha Ngộ thay cho
Cha Giuse Bỉ.
* Ít năm sau, Cha Anrê Nguyễn Hữu Lễ được
chuyển về làm phụ tá cho Cha Ngộ thay cho Cha Giuse Kế về Mỏ Cày.
*
Vài năm sau, Cha Philipphê Nguyễn Trung Hiếu được chuyển về làm phụ tá cho Cha
Ngộ thay cho Cha Anrê Lễ chuyển về La Mã.
Cha Phêrô Đặng Thành Tiên - Năm 1974, Cha Phêrô Đặng Thành Tiên về
nhận nhiệm sở Sa Đéc.
*
Trong thời gian làm Cha Sở Sa Đéc, Cha Phêrô Tiên tiếp tục công trình Nhà thờ
mà Cha Phêrô Ngộ còn bỏ dở. Trong thời buổi khó khăn, ít người giúp đỡ, Cha
Phêrô Tiên bắt buộc phải bán một phần đất của họ đạo là Nhà Đức Mẹ Ngà và một
quả chuông có từ thời Cha Buseux.
*
Trong thời gian này có Cha Micae Lê Vĩnh Khương được chuyển về làm phụ tá cho
Cha Tiên đến năm 1989, sau đó Cha về họ đạo Tân Quy.
*
Năm 1989 Cha GioaKim Dương Kim Ngoan được chuyển về làm cho phụ tá tại Sa Đéc
đến năm 1994, sau đó Cha về họ đạo Phú Long.
*
Năm 1994, Cha Phaolô Trần Chánh Lượng được chuyển về làm cha phụ tá tại Sa Đéc.
Cha
Gioan Baotixita Nguyễn Minh Sang - Năm
1997, Cha Phêrô Đặng Thành Tiên qua đời, Cha Gioan Baotixita Nguyễn Minh Sang
được tạm thời làm Cha sở tại Sa Đéc, nhưng Cha vẫn ở Cái Tàu.
Cha
Matthêu Nguyễn Văn Văn - Ngày 08 - 02 -
2003, Cha Matthêu Nguyễn Văn Văn được Đức Cha Tôma chuyển về làm Cha sở họ đạo
Sa Đéc, kiêm quản hạt vùng Sa Đéc cho đến ngày nay. Cha đã trùng tu lại nhà thờ, lót bêtông sân và làm
hàng rào bao quanh khuôn viên nhà thờ. Cha cũng đã tân trang phòng ốc và hoàn
chỉnh thêm hà dạy giáo lý, gồm có 06 lớp.
*
Ngày 17-09-2003, Cha Giacôbê Nguyễn Minh Trường được chuyển về làm cha phụ tá
tại Sa Đéc.
*
Ngày 20- 09-2007, Cha Philipphê Phạm Huy Phong được chuyển về làm cha phụ tá
thay cho cha Giacôbê Trường được chuyển về họ đạo Hoà Long.
Nếu
lấy móc lịch sử từ năm 1800, thì cho đến hôm nay, họ đạo Sa Đéc có lịch sử trên
200 năm.
Viết theo lời kể của Cha Aug. Nguyễn Đức Nhân và các giáo dân họ Sa Đéc:
Ông Juliô Pham văn Hạt. Ông Văn phú Cần. Ông chín Tuyển. Ông Năm Thìn.
HỒI KÝ:
VIỆN GIÁO LÝ THÁNH PHAOLÔ
- Tan, nhưng không mất -
Ngày
24/11/1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ký sắc lệnh thành lập Giáo phận Long
Xuyên (được tách ra từ giáo phận Cần Thơ). Đồng thời cắt cử linh mục Micae Nguyễn khắc Ngữ lên chức vụ Giám mục
chăm sóc giáo phận. Giám mục Micae là một trong số những linh mục cùng đi với
đoàn người di cư 1954, từ Bắc vào Nam.
Sau
khi đã hoàn thành sứ vụ Giám mục, Ngài qua đời ngày
10/6/2009 tại TP Long Xuyên.
Đất
lành chim đậu, bên cạnh dòng sông Cửu Long hiền hòa là những người dân Nam Bộ
chân chất lương thiện, đã giang cánh tay chia sẻ tiếp đón “Bầu ơi thương lấy
bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Thật
vậy, dưới thời nền Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng
thống Ngô Đình Diệm đã cho đào kênh lập ấp tại một vùng đất phèn hoang hóa,
giáp ranh tam giác giữa Cần Thơ - Long Xuyên - Rạch Giá, gọi là vùng Cái Sắn,
rồi cho dẫn đoàn người di cư xứ bắc đến định cư sau năm 1954. Họ lập nghiệp chủ
yếu dọc theo các bờ kênh mới đào, dẫn nước ngọt từ sông Ông Thoại chảy vào.
Công việc hàng ngày của họ là việc đồng áng. Nhờ vậy mà Giáo phận Long Xuyên
mới bỗng dưng có thêm một khối lượng lớn những người Bắc Công giáo sống đạo.
Long
Xuyên, nếu cứ đi xuyên qua các xứ đạo, từ thành thị đến thôn quê, nơi
nào có Nhà Thờ, Nhà Nguyện hay Tu
Viện, là nơi đó có trường học. Hình như mục tiêu mà vị giám mục hướng tới là,
ngoài việc khai tâm hướng thiện, tốt đạo đẹp đời (mến Chúa yêu
người), còn có thêm một mục tiêu nữa là nâng cao dân trí và đào tạo hiền tài
cho quê hương đất nước.
Năm
1971, Viện Giáo Lý thánh Phaolô được
thành lập nhằm đáp ứng những nhu cầu truyền
giáo và giáo dục âu cũng có chung một mẫu số này.
Trước
1975, mặc dù quê hương VN đang nằm trong vòng xoáy chiến tranh, nhưng cơ sở vật
chất và tinh thần đạo đức của các tín đồ Công Giáo không ngừng phát triển.
Theo
lời của vị chân tu thánh đức Hiêrônimô:
“Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa”, nên trước khi thành
lập VGL, Đức Giám mục giáo phận đã cử cha Phaolô Nguyễn Trọng Tri sang Rôma và
Pháp để nghiên cứu thêm về ngành sư phạm giáo lý. Về nước, cha được bổ nhiệm là
Viện Trưởng tiên khởi VGL Thánh Phaolô.
Viện
Giáo Lý Thánh Phaolô là nơi qui tụ các nam sinh công giáo, từ lớp 10 đến lớp
12, vừa học theo chương trình của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, vừa học giáo lý, giảng đạo.
Sau
3 năm học tập, các giảng viên giáo lý sẽ
được phân công phục vụ tại các họ đạo 3 năm, và sau đó, nếu muốn lập gia đình
nhưng vẫn tiếp tục là “kẻ giảng” -như lời Đức cha Micae thường gọi, trong tư
cách là những ông chánh, ông câu, ông biện… giảng dạy giáo lý rành nghề trong
tương lai; hoặc là có thể lên đại chủng viện, tiếp tục theo học để chịu chức
linh mục (nếu không màng đến cái
xương sườn cụt như ông Adong).
Khóa
đầu tiên gồm 31 học viên, gọi là lớp Stêphanô.
Khóa
thứ hai gồm 19 học viên, gọi là lớp
Phanxicô.
Khóa
thứ ba gồm 18 học viên, gọi là lớp Têrêsa.
Khóa
thứ tư gồm 22 học viên, gọi là lớp Phaolô.
Tất
cả được sự hướng dẫn giảng dậy của các
cha và các thầy:
Cha Phaolô Nguyễn Trọng Tri
(VT).T.Giuse Phạm Hồng Nhật
Cha Augustino Vũ Hồng Đức (VT). T.Hier. Đỗ Xuân Phương
Cha Đaminh Vũ Hồng Nho
(GĐ). T.Giuse Vũ Ngọc Nội
Cha Giuse Vũ Đức Hước. T.Giuse Trương Trung Hưng
Cha Giuse Nguyễn Trọng
Khanh. T.Giuse Bùi Đức Tiến
Cha Phêrô Chu Quang
Tào. T.Giuse Nguyễn Xuân Thiềng
Cha Phêrô Nguyễn Đức
Thiêm. Thầy Giuse Bùi Đình Chư
Thầy Phêrô Lê Thành
Công. Thầy Giuse Nguyễn Hữu Duy
Thầy Giuse Vũ Hoàng Anh
. Thầy Antôn Nguyễn Đức Thành
Chương
trình học đạo gồm các môn như: Kinh Thánh, thần
học giáo dân, sư phạm giáo lý, tu đức học, bí tích học… và những kỹ năng sinh
hoạt khác trong các hội đoàn công giáo, nhất là để giúp cho đoàn Thiếu Nhi
Thánh Thể.
Kim
chỉ nam của các giảng viên giáo lý là:
Rèn luyện thân thể KHỎE. Rèn luyện trí óc SÁNG. Rèn luyện tâm hồn THÁNH, như đã
được gói ghém trong bài hát “Viện Giáo Lý Hành Khúc”.
Vào
các ngày thứ Hai đầu tuần, khi chào cờ,
các học viên đứng nghiêm, đưa bàn tay phải (để lộ ra ba ngón giữa) lên ngang
tầm mí mắt phải, tất cả vừa hát “Viện Giáo Lý Hành Khúc”, vừa hướng về Viện Kỳ.
Viện Kỳ là một tấm vải hình chữ nhật mầu nâu, có in hình Thánh Giá nằm giữa ba
góc của một tam giác đều, biểu tượng về Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha (dựng
nên ta), Chúa Con (cứu chuộc ta) và Chúa Thánh Thần (thánh hóa
ta). Phía dưới biểu tượng có dòng chữ: Viện Giáo Lý Thánh Phaolô.
Để
có được ba phẩm chất trên, các cha giáo đã thực hiện
nhiều chương trình và phương pháp giáo dục đặc biệt thích hợp. Tôi còn nhớ: để
sử dụng hợp tình hợp lý vốn thời gian quý báu Chúa ban (thời gian là vàng
ngọc), những châm ngôn động viên nhắc nhở được ghi trên bảng trong một thời
gian nhất định như “Tiếng chuông là tiếng Chúa”, “The cross before the
crown”, “Chúa đang nhìn bạn”, “Fait bien ce que tu fait”.
Để
giúp bỏ những thói quen xấu như
lười biếng, gian dối, vô trách nhiệm, nóng giận, chửi thề nói tục… Một đồng bạn
là “điệp viên chìm” sẽ trao tận tay tấm“thẻ đỏ” cho bất cứ ai vi phạm.
Thế là khi nghe tiếng chuông báo hiệu giờ ra chơi (từ 4 giờ đến 5 giờ chiều),
phạm nhân cuối cùng nào đang cầm tấm thẻ đỏ trong tay, tự động lên trình diện
cha Giám Đốc, và chắc chắn sẽ nhận được một công tác lao động về vệ sinh môi
trường cách công khai. Ngoài ra, theo lời Chúa trong Kinh Thánh sau khi Adong
và Evà phạm tội ăn quả Chúa cấm, là phải lao động đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có
mà ăn, từ đó, kiếp sống làm người mới xuất hiện hai loại lao động, lao động trí
óc và lao động chân tay. Nhưng tôi thấy cha Giám Đốc luôn khuyến khích các học
viên biết quý trọng lao động chân tay, như trồng rau, thu hoạch lúa, khiêng đá
vác cát tự làm lấy sân bóng rổ… theo gương thánh PhaoLô “Ai không làm việc
thì không đáng ăn”, noi gương Thánh PhaoLô tay dệt tay đan… Nhờ Đức Giêsu,
với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, đấng cứu thế, chúng ta hãy vui mừng hân hoan.
Về
công tác xã hội, thỉnh thoảng cha Giám Đốc có tổ
chức cho anh em các buổi dã ngoại như: thăm viếng giúp đỡ các gia đình nạn nhân
chiến tranh, dạy giáo lý, cắt tóc miễn phí cho các em nghèo, thăm nom người già
và các cô nhi viện… Đồng thời anh em cũng được đi tham quan các cảnh đẹp thiên
nhiên, các di tích văn hóa lịch sử cổ truyền của dân tộc và của các tôn giáo
bạn như: Chùa Bà Chúa Sứ ở núi Sam, du lịch tắm biển…
Tôi
còn nhớ, hôm anh em đi du lịch phơi nắng tắm biển ba ngày ở hòn Sơn Rái thuộc
vùng biển Phú Quốc, Rạch Giá, ngoài việc
sinh hoạt vui chơi cắm trại trên bãi cát, trong balô, anh em có đem theo một
pho tượng Đức Mẹ Maria nhỏ (khoảng bốn tấc). Trước khi chào tạm biệt ra về, anh
em đã đặt tượng Mẹ Maria ở lại trên một hòn đá lớn, cao hơn đỉnh đầu. Từ đó đến
nay, không có thông tin về pho tượng ấy (còn hay mất?).
Về
phần tu đức, hàng tuần, có một bài huấn đức sống động từ một Linh Mục. Mỗi
tháng có một bài huấn đức nóng hổi từ chính Đức Cha Micae.
Năm 1974, sau ba năm học tập, lớp Stêphanô đầu tiên ra
trường. Anh Hùng, anh Tâm phục vụ tại trường Trung Học Phụng Sự Long Xuyên. Anh
Tới tại trường Thanh Bình Thốt Nốt. Anh Quân, anh Vân tại Tiểu Chủng Viện Á
Thánh Phụng Châu Đốc. Anh Quyền, anh Thiêm, anh Thiên và anh Huynh được bề trên
phân công “nhảy dù” xuống đảo Phú Quốc. Còn lại là được sai đi các xứ đạo khác
trong toàn Giáo Phận.
Như thói quen mỗi sáng, nghe theo tiếng chuông nhà
thờ, anh Quyền đang phục vụ tại một xứ đạo ở đảo Phú Quốc từ phòng ngủ
chạy ra ngoài sân tập thể dục, bất ngờ bị một loạt đạn M16 bắn ghim vào người.
Một anh lính Việt Nam Cộng Hòa đã bắn nhầm, vì tưởng anh là Việt Cộng chạy
ngang qua. Thi hài anh được đem về an táng tại quê nhà, kênh 4B. Trong buổi cầu
nguyện, cha Viện Trưởng có nhắc đến một lá thư, trong thư anh thỉnh nguyện bề
trên xin cho được phục vụ tại một trại cùi vào năm sau.
Đến
ngày 30/4/1975, Nam Bắc thống nhất, Viện Giáo Lý Thánh Phaolô như một đàn ong
vỡ tổ, mạnh ai nấy chạy. Có người vượt biên, có kẻ mất tích, có người trở về ở
với gia đình, có người đi bộ đội. Cha viện trưởng Phaolô Nguyễn Trọng Tri cho
biết, sau khi về giáo xứ Kênh 1A, cha bị bắt và bị đem
đi “giam lỏng” ở Thứ Chín, xã Đông Hòa vùng rừng U Minh. Cha bị cấm làm linh
mục, đồng thời không được phép ở trong khuôn viên nhà thờ (sống như một
người vô gia cư). Cha được một linh mục khác giúp đỡ cất cho một cái chòi
lá, bên cạnh bờ sông Thứ Chín. Hàng ngày, cha thì thầm đọc kinh cầu nguyện và
đặt mình trong tâm trạng bên bờ sông Babilon, như có ghi trong Kinh Thánh. Sau
khi Cộng Sản Liên Xô sụp đổ, cha được trả tự do. Hiện nay, cha đang hưu dưỡng
tại Đền Thánh Giuse, thành phố Rạch Giá.
Mặc
dù thời gian với bao biến cố thăng trầm
trôi qua, khi điểm lại quân số, VGL Thánh Phaolô cũng có được 8 linh mục, gồm
cả trong lẫn ngoài nước: cha Phêrô Trương Công Đam, cha Giuse Nguyễn Tiến Tâm,
cha Inhaxiô Đinh Viết Huynh, cha Giuse Đoàn Sinh, cha Gioan Baotixita Trần Hữu
Hạnh, cha Đaminh Cao Sơn Thân (Nhật), cha Giuse Vũ Ngọc Châu (Mỹ) và cha Phaolô
Phạm Xuân Hiền (Mỹ). Các vị linh mục này đã và đang cố gắng bước theo chân cha
thánh Gioan Vianey, luôn có lòng tôn kính và yêu mến Đức Mẹ Maria.
Đức
Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, trong cuốn “ĐƯỜNG HY VỌNG” có nói: “Hạnh
phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu mà người ấy tập yêu suốt
đời”.
Hướng
theo tinh thần ấy, hàng năm, Gia Đình VGL có tổ chức họp mặt một lần tại một
địa điểm được thông báo trước. Thông thường vào ngày 25/1, lễ kính Thánh PhaoLô
Tông Đồ Trở Lại. Chương trình họp
mặt đại thể như sau: tiếp đón, gặp gỡ, chia sẻ, cầu nguyện bằng kinh Mân Côi
(nếu ở nhà riêng), cộng thêm chầu Bí Tích Thánh Thể (nếu ở nhà xứ). Cuối cùng
là tiệc liên hoan thân mật. Dù có mặt hay vì một lý do nào đó vắng mặt, anh em
vẫn nhớ, và luôn cầu nguyện cho nhau qua kinh mân côi và Bí Tích Thánh Thể khi
có thể.
Qua
cha Nho, cha Đam và cha Tiến Tâm,
các anh em ở VN cũng được biết thêm ít nhiều thông tin về các anh em ở hải
ngoại. Sự quan tâm chia sẻ về vật chất cũng như tinh thần của mọi thành viên trong
gia đình VGL, đã và đang phần nào khích lệ, như sưởi ấm thêm tình Chúa, tình
người.
Ở
VN, thỉnh thoảng anh em ở gần lại có dịp hàn
huyên tâm sự. Anh Minh, nhà ở chợ kênh Đ lớp Stêphanô, sau khi lập gia đình đã
từng làm Chánh Trương mà cha xứ lại chính là cha giám đốc VGL Đaminh Vũ Hồng
Nho. Anh Thiều ở huyện Hòn Đất, nghe nói đã làm chánh trương mấy khóa liền. Anh
Trung (cò lửa, ở Bảo Lộc Lâm Đồng) và anh Điệp (bộ đội đi Campuchia về xuất
ngũ), ở TP Sa Đéc, lớp Phanxicô, hai anh này được cha xứ sở tại giao cho nhiệm
vụ dạy giáo lý và cả giáo lý hôn nhân nữa, đúng với sở trường lấy vợ, suốt đời
nuôi dưỡng bảo vệ vợ của chàng. Anh Tập, lớp thứ ba, sau khi lập gia đình cũng
đã làm chủ tịch hội đồng mục vụ tại GX Martinô kênh E1. Anh Lợi, lớp thứ ba tại
TP Rạch Giá, sau khi lấy vợ, là ca trưởng của ca đoàn họ đạo. Anh Bình, lớp thứ
tư, ở giáo xứ Quảng Phúc, GP Ban Mê Thuật, sau khi lấy vợ, làm Phó chủ tịch
HĐGX. Anh Mưu (bộ đội đi Campuchia về xuất ngũ), lớp thứ tư, ở kênh 8B, sau khi
lập gia đình, vẫn siêng năng cầu kinh và hát lễ ở nhà thờ, ca ngợi Đức Giêsu
Kitô và Mẹ Maria trong ca đoàn họ đạo.
Nhiều
anh em khác, cũng âm thầm hoặc công khai loan báo tin mừng về Đức Giêsu Kitô
phục sinh bằng nhiều cách thức khác nhau, nhất là trong các hội đoàn công giáo,
tùy theo điều kiện và hoàn cảnh khi có thể.
Còn
nói về tình duyên của các anh bố đời, vừa sôi động lại vừa hấp dẫn hơn cả bộ
phim dài nhiều tập. Nó trôi theo dòng đời ngược xuôi xuôi ngược, không ai giống
ai. Nó có đầy đủ mọi sắc thái với những hỉ nộ ái ố vui buồn sướng khổ khác nhau
của một kiếp người.
Người
ta thường nói, tình yêu không có ranh giới, nên có anh nhảy vào rồi lại chui
ra. Có anh rẽ ngang rồi lại chạy dọc. Có anh yêu rồi lại mất, mất rồi lại yêu.
Có anh vì thấy em hiền như ma sơ, nên chẳng ngại, lúc đầu là mời, sau là nắm
tay một nữ tu kéo thẳng về nhà làm vợ, trước sự phản đối của bố mẹ hai bên, như bản sao từ chuyện tình lý tưởng giữa Rômiô và
Juliette. Hôm ấy, khi anh em ngồi bàn tán xôn xao về vở kịch hấp dẫn bi hài
này, nghe đâu có một vài bố đời khác sắp được làm “ông cố” (giả vờ) biện minh
rằng, thất bại đời bố, củng cố đời con. Một bố đời khác đứng dậy, vì cái bụng
hơi to nên giây thắt lưng bị vênh, anh đưa hai bàn tay xuống, nâng nhẹ giây
thắt lưng lên tới rốn, rồi phát biểu (có các cha giáo ngồi ở bàn kế cận),
trước đây tao không chịu làm cha, là vì tao muốn làm bố cha, bố soeur, như vậy
được cả hai, vừa ngon ăn lại vừa chắc ăn như bắp. Một diễn viên là bố đời khác
chen vào phản đối. Mọi người nghe cứ thế ôm bụng mà cười.
Đầu
năm 2013, anh em có dịp quy tụ đến thăm cha Viện
Trưởng Augustino Vũ Hồng Đức về nghỉ hưu tại Bình Dương. Tôi thấy Cha cầm trên
tay một cỗ tràng hạt mân côi và nói: hằng ngày cha vẫn nhớ và cầu nguyện cho
các anh em. Nói đến đây, tôi cũng nhớ đến những anh em mà cánh cửa cuộc đời đã
khép lại. Sau hàng loạt những cái bắt tay nồng ấm, anh em lần lượt như xếp hàng
bước lên một cái cầu thang nhỏ, để cùng nhau tham dự Thánh Lễ trong một căn
phòng chật hẹp, nhưng chứa chan tình Chúa tình người. Trước khi chào tạm biệt
ra về, anh em cùng quây quần bên cha trong bữa cơm thân thiện.
Thời
gian trôi qua, thỉnh thoảng cha và con lại có dịp nhỏ to bên chén rượu nhạt, cha Giám Đốc Đaminh Vũ Hồng Nho có lần vừa mỉm cười
vừa chia sẻ: “Ý Chúa không trùng hợp với ý ta, cha con mình đang hăng say
vui vẻ… tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc… theo lý tưởng là Chúa Kitô, ai ngờ, đùng một cái, tan
rã mỗi người một ngả…”.
Đầu
năm 2014, linh mục Đaminh Cao Sơn Thân (lớp
Phanxicô) từ Nhật Bản trở về Việt Nam. Cha có đến thăm khung cảnh VGL ngày xưa
sau gần 40 năm xa cách. Dẫy nhà
ngủ, nhà học và nhà sinh hoạt hồi xưa, nay đã được đại tu, là nơi sinh hoạt của
Giáo Xứ và Giáo Phận. Chỉ còn sót lại phía sau nhà ngủ là một cây Sao cổ thụ,
nơi anh em tắm giặt và phơi quần áo. Người lạ cảnh lạ, một mình lủi thủi đi đi
lại lại, từ sau pho tượng Đức Mẹ ngoài trời, tiến về cửa chính Nhà Thờ, thỉnh
thoảng cha Thân lại bắt gặp trên sân một cánh hoa mầu nâu mộc mạc. Thì ra đó là
cánh hoa của cây Sao cổ thụ. Đứng lại quan sát, mỗi khi có luồng gió Nam thổi
tới, từ trên cao, hoa Sao lại bay về phía nhà thờ, rồi từ từ hạ cánh xuống sân
như những chiếc trực thăng trông khá ngoạn mục. Nhìn về phía mặt trời mọc bên
tay trái, nơi anh em ngày xửa ngày xưa ngồi ăn cơm, có Soeur Lucia Tin (áo trắng
dòng Đaminh) đã từng vất vả chăm sóc những bữa ăn cho anh em. Căn nhà ấy,
hôm nay đã được đại tu, là nơi sinh hoạt của các các nữ tu dòng Mến Thánh Giá.
Nhưng
còn có một dấu tích lịch sử không
thể phai mờ theo năm tháng, đó là ngày xưa, mỗi lần anh em muốn thì thầm đọc
kinh cầu nguyện dưới chân Mẹ Maria, anh em phải ngửa mặt mỏi chân leo lên, rồi
sau đó lại cúi mặt bước xuống qua nhiều bậc thang. Nhưng hôm nay, pho tượng Mẹ
Maira đang đứng đợi trên đài, đã được hạ thấp. Ai ai cũng rất dễ dàng, vừa lần hạt
đọc kinh mân côi, vừa ôm lấy bệ chân Mẹ.
Cách
đây tám năm (Năm 2007), một hiện tượng lạ đã xảy ra tại Giáo Xứ này. Sau thánh
lễ chiều Chúa Nhật Phục Sinh, lúc 10 giờ 20 phút tối, Mẹ Maria đã đến thăm,
bằng cách hiện diện sống động, đồng thời tỏa ánh hào quang 3 lần trong vòng 5
phút tại một pho tượng Mẹ Maria LaVang bằng gỗ, bên trong hội trường LaVang
phía sau Nhà Thờ, trước sự chứng kiến của khoảng 3000 người khi họ đang hát và
đọc kinh mân côi. Họ đã vỗ tay reo hò, làm rung chuyển cả một vùng trời trong
bóng đêm. Sau đó họ không đọc kinh nữa, mà hát tất cả những bài hát về Đức Mẹ
rồi lũ lượt ra về. Trên đường đi ra cổng, tôi nghe họ nói với nhau, tao thấy
vòng hào quang, tao mừng quá nhảy người lên mất một chiếc dép, tao bỏ luôn
chiếc dép thứ hai đi chân không ra về. Một anh khoảng 40 tuổi nói với tôi, quá
đủ rồi, nếu Chúa có an bài cho anh phải chết ngay bây giờ, anh vẫn vui…
Mới
đây, Đức Giám Mục địa phận đã đặt Giáo Xứ Đài Đức Mẹ là trung tâm hành hương
của Giáo Phận Long Xuyên và các đại lễ đại hội… thường được tổ chức tại đây.
Ngày
6/10/2014, Đức Giám Mục phụ tá Giuse Trần Văn Toản thông báo hàng tháng vào lúc
5 giờ 30 chiều các ngày thứ Bảy đầu tháng sẽ có
rước kiệu lần hạt tôn kính Đức Mẹ, trước khi cử hành Thánh Lễ đồng tế.
Viện
Giáo Lý Thánh PhaoLô tọa lạc tại Giáo Xứ Đài Đức Mẹ Tân Hiệp, là đứa con sinh
non của Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Viện chưa kịp làm giấy khai sinh thì đã
bị xóa sổ. Nhưng giáo lý về Đức Giêsu KiTô phục sinh mà thánh PhaoLô rao giảng,
mãi mãi còn sống trong lòng mọi người. Và Mẹ Maira Lavang, tay bồng Hài Nhi
Giêsu, cũng muốn giới thiệu với chúng ta về giáo lý mạc khải vô cùng quan trọng
và quý giá ấy.
Giáo
phận Long Xuyên đã và đang có bốn vị Giám Mục với bốn phương châm.
- Giám mục tiên khởi, Đức
Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, phương châm:
Chúa
Kitô ở trong anh em.
- Giám mục thứ hai, Đức Cha
Gioan Baotixita Bùi Tuần, phương châm:
Giới răn mới, anh em hãy yêu thương nhau.
- Giám mục thứ ba, Đức Cha
Giuse Trần Xuân Tiếu, phương châm:
Xin
cho chúng nên một.
- Giám mục thứ tư, Đức Cha Phụ Tá, Giuse Trần Văn Toản, phương
châm:
Vinh dự của tôi là Thập Giá Đức Kitô.
Bốn
phương châm này, theo thứ tự, cũng là bốn ngôi sao sáng cho dòng đời ngược xuôi
xuôi ngược của anh em giáo lý viên.
Thánh
ý Thiên Chúa thật nhiệm mầu! Con chỉ là cát bụi, con luôn tri ân Ngài!
Dù
VIỆN có tan, nhưng GIÁO LÝ về Đức Giêsu Kitô Phục Sinh luôn tồn tại.
Âm thầm : Lạy Thánh Phao Lô, cầu cho chúng con!
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ
có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Lạy Đức Giêsu Kitô (Đấng Cứu Thế), con luôn hướng về
Ngài, xin Ngài thương xót con!
Tân Hiệp ngày 25/01/2015. Lễ kính Thánh Phaolô trở lại,
quan thầy của Viện Giáo Lý.
(Hồi ký của một nhóm cựu Giảng Viên Giáo Lý)
CHUNG
SỐNG
1. Muốn bếp hồng thì góp củi
góp than.
Muốn rộn rã thì góp tiếng ca
tiếng đàn.
Mình cùng nhau ở chung mái
nhà.
Nhà mình vui tựa những niềm
vui góp về.
Muốn no say muốn ấm êm
Thì góp rượu thịt góp chiếu
chăn
Mình cùng nhau hợp chung tấm
lòng
Nhà mình chan hòa những niềm
vui sống cùng.
Góp một
bàn tay
Dựng xây
mái ấm nhé.
Góp một
cánh én
Vời đưa
xuân sang.
2. Muốn lãng mạn thì góp
mộng góp mơ
Muốn tình tứ thì góp nhớ
nhung vỗ về
Mình còn yêu còn mong mới lạ
Đừng để quen thuộc đến nhàm
chán hững hờ.
Muốn thuận hòa muốn thiết
tha
Thì góp độ lượng góp lắng
nghe
Mình còn yêu còn mong sát
gần
Đừng để riêng biệt xa rời
chia cách mình.
Thơ mộng
lên đi
Tìm hương
sắc mới nhé
Đến gần
nhau thêm,
Và yêu nhau hơn.
VGL.
T.PHAOLÔ HÀNH KHÚC
Này
anh em trong tinh thần Phaolô ta gắng sức lên,
Hiến
dâng cuộc đời vì lý tưởng là Chúa Kitô,
Quyết
đem Phúc âm loan truyền cho khắp muôn dân.
Đời
ta sáng lên như muôn tia nắng huy hoàng.
Nào
anh em vui lên đường chông gai ta quyết dấn thân,
Nước
Chúa đang chờ những tâm hồn chẳng tiếc hy sinh,
Quyết
đem thế gian trở về với Đấng Cứu Tinh,
Đoàn
ta sướng vui vang lên ca khúc khải hoàn.
Anh
em ơi! Cờ Giáo Lý phất phới tung bay giữa bầu trời trong sáng.
Anh
em ơi! Cùng hăng hái ta quyết thi đua sống cho tròn ba chữ : KHOẺ – SÁNG – THÁNH.
Lưu niệm
chuyến đi du ngoạn Hòn Sơn Rái ngày 14-04-1975.