PHẦN MỤC VỤ
MẶC ĐẸP CHO
ĐỜI
Lời mở
Mặc là một nhu cầu thiết thân của con người
trong xã hội. Quần áo và những trang phục như mũ nón, ví cặp, giày dép… không
phải chỉ che thân và bảo vệ sự sống, nhưng còn nói lên tính cách và phẩm giá
cao quý của người dùng. Nhiều người săn tìm những bộ quần áo của các công ty
thời trang nổi tiếng, trong khi nhiều người khác lại chỉ mặc những chiếc quần
jeans rách vá nhiều chỗ cho có vẻ phóng khoáng tự do. Một số bạn trẻ chỉ thích
mặc những quần áo ngắn ngủn, mỏng manh, để khoe những đường cong, cơ bắp trên
thân thể. Vậy “mặc như thế nào” có lẽ vẫn là câu hỏi được nhiều người đặt ra
hằng ngày mỗi khi phải thay quần áo để đi học, đi làm hay sinh hoạt trong xã
hội.
1. Cái mặc trong dòng lịch sử
nhân loại
Nếu ta sống một mình trên hoang đảo như
Robinson Crusoe[10] hay trong phòng kín, có lẽ chẳng cần mặc quần áo, dù rằng
quần áo vẫn cần để bảo vệ cơ thể như giữ ấm, chống ướt, chống lạnh… Nhưng khi
tiếp xúc với cộng đồng gồm nhiều loại người khác nhau, như nam nữ, già trẻ, giàu
nghèo, sang hèn, trí thức hay bình dân… ta cần phải ăn mặc cho phù hợp để nói
lên tư cách của mình và tôn trọng người khác.
Kể từ thời
tiền sử, dù còn ăn lông ở lỗ, chỉ biết mặc những manh áo, tấm khố làm bằng vỏ
cây, da thú, con người đã biết trang điểm cho mình xinh đẹp bằng những vệt màu
bằng đất sét[11], đeo những vỏ ốc, gắn những lông chim sặc sỡ. Người càng có
địa vị cao trọng trong bộ lạc như tù trưởng, thầy pháp, già làng, thì quần áo
càng có thêm những điểm khác biệt.
Vào thời kỳ
hình thành các dân tộc, trang phục dần dần mang nét đặc sắc của nền văn hoá.
Mỗi dân tộc có bộ trang phục truyền thống để mặc trong dịp lễ hội hay các ngày
trọng đại của đất nước, như bộ Sari của Ấn Độ, Kimono của Nhật Bản, Hanbok của
Hàn Quốc, Kebaya của Indonesia, Sabai của Thái Lan, Kilt của Scotland, Gho của
Bhutan, Áo dài của Việt Nam.
Ngoài những bộ
quần áo đơn giản mặc trong các ngày làm việc, những bộ trang phục đẹp đẽ chỉ
tìm thấy ở chốn cung đình dành cho vua chúa, quan quyền. Chỉ những người này
mới có đủ điều kiện để mặc những bộ quần áo may bằng những chất liệu đặc biệt
như gấm vóc, lụa là, thêu bằng chỉ vàng, đính thêm ngọc quý.
Từ đầu thế kỷ
IV, do ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo, nhất là Kitô giáo, mọi người trong đế
quốc Rôma đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa nên quần áo sang trọng không còn
là độc quyền của giới quý tộc. Ai cũng phải ăn mặc nghiêm chỉnh để ra mắt Thiên
Chúa, nhất là khi tham dự những nghi lễ phụng tự. Khi các cuộc cách mạng lật đổ
chế độ quân chủ độc tài bùng nổ ở nhiều nước châu Âu, khởi đầu từ cuộc Cách
mạng Pháp năm 1789, việc mặc những trang phục đẹp dần dần phổ biến cho quảng
đại quần chúng, nhất là trong giới tư bản giàu có.
Từ thế kỷ XIX,
khi đời sống cộng đồng ở đô thị phát triển, cách ăn mặc của con người cũng thay
đổi. Những bộ quần áo truyền thống cầu kỳ, phức tạp, nhiều chi tiết được thay
bằng những bộ quần áo gọn gàng, đơn giản để tiện làm việc trong các công ty,
nhà máy, xí nghiệp, nhất là khi ngành may mặc được công nghiệp hoá với những
máy móc hiện đại. Quần áo may sẵn với những tiêu chuẩn rõ ràng, màu sắc hấp
dẫn, vừa rẻ vừa đẹp, có thể đến tay mọi người. Sự phân cấp xã hội qua trang
phục giữa những con người sang hèn, giàu nghèo, già trẻ cũng không còn gay gắt
như trước vì ai cũng có thể mặc những bộ quần áo giống nhau.
2. Người Việt mặc như thế nào?
Dân tộc Việt
chúng ta cũng tiến từ giai đoạn mặc đơn giản thời các vua Hùng với yếm, váy
ngắn cho đàn bà; áo giao lĩnh, trực lĩnh, viên lĩnh và khố vải cho đàn ông[12],
tiến đến giai đoạn có quần áo tươm tất hơn khi bắt đầu nền quân chủ độc lập của
đất nước vào năm 938. Trong hơn 1.000 năm bị người Trung Quốc đô hộ (111 TCN -
937), những người thân chính quyền và giàu có mặc theo người Trung Quốc, trong
khi quần chúng mặc theo người Việt cổ. Điều này nói lên tinh thần ái quốc chống
lại cuộc xâm lăng văn hoá vì trong khi phụ nữ Trung Quốc mặc quần với hai ống
riêng biệt, thì phụ nữ Việt Nam
mặc váy. Vì thế mới có câu ca dao:
Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên Tây thì có, bên Tàu thì không.
Quần chúng
bình dân mặc quần áo đơn sơ cho dễ làm việc, may bằng vải bông hay đũi[13] là
loại tơ tằm dệt thô, có nhiều đường nối. Nhiều người giàu hoặc quan lại mới có
điều kiện may quần áo bằng lụa là, gấm vóc. Màu sắc thường là màu trắng, đen,
xanh đậm, nâu. Còn những màu rực rỡ khác đều dành cho người quyền quý, giàu
sang. Đặc biệt màu vàng với việc thêu các linh vật như long, ly, quy, phụng chỉ
dành cho vua chúa, quan lại. Người dân nếu vi phạm, có thể bị khép vào tội phạm
thượng, khi quân, phản loạn.
Áo dài là
trang phục đổi mới từ áo ngũ thân của người Việt Nam , mặc cùng với quần dài, dành
cho cả nam lẫn nữ, nhưng thường dành cho nữ nhiều hơn. Chúa Vũ Vương Nguyễn
Phúc Khoát (1744) được coi là người có công sáng chế chiếc áo dài và định hình
chiếc áo dài Việt Nam
như ngày nay[14]. Cho đến thế kỷ 17, truyền thống mặc váy vẫn còn tồn tại ở
Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính, đời vua Lê Huyền Tông,
tháng 3 năm 1665, với sắc lệnh nhắc nhở: "Áo đàn bà con gái không có thắt
lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế…". Năm
Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt
phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới có câu ca dao kêu trách như sau:
Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng!
Chiếc áo dài
ngày nay được hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường (dịch sang tiếng Pháp: Le Mur) giới thiệu
đầu tiên trên báo Phong Hoá, số 90, ngày 23/3/1934. Áo chia hai tà trước sau từ
dưới eo khoảng 8cm. Năm 1935, những chiếc áo dài Le Mur xuất xưởng, tạo sự
duyên dáng cho phụ nữ nên được cả xã hội đón nhận. Từ đó đến nay, áo dài đã
được thay đổi nhiều kiểu dáng và chất liệu nên trở thành trang phục riêng biệt
của nữ giới Việt Nam
và được nhiều nước trên thế giới biết đến[15].
3. Mặc theo quan điểm truyền
thống Công giáo
Người tín hữu
Công giáo có quan điểm khác biệt về cái mặc và hướng nhiều về lĩnh vực đạo đức,
tinh thần hơn là những quần áo, trang sức bằng vật chất bên ngoài. Khởi đầu,
người Công giáo giữ nguyên quan niệm truyền thống về y phục như Do Thái giáo đã
diễn tả trong Thánh Kinh Cựu Ước. Từ nguyên thuỷ, những người đầu tiên trần
truồng không y phục vì họ được ánh sáng của Thiên Chúa bao phủ (x. St 3). Chỉ
sau khi phạm tội, cắt đứt sự hiệp thông với Thiên Chúa, họ mới cảm thấy xấu hổ
trước mặt Thiên Chúa và trước mặt nhau, nên Thiên Chúa đã mặc cho họ những
chiếc áo da (x. St 3,21).
Y phục không
phải chỉ bảo vệ thân thể, chống lại sự thay đổi thời tiết, những nguy hiểm của
môi trường như các côn trùng, mà còn chống lại những cái nhìn thèm khát, muốn
lột trần, hạ thấp giá trị con người thành đồ vật để thoả mãn dục tính. Vì thế,
luật cấm nhìn thân thể trần truồng của cha mẹ (x. St 9.20-27), anh em (x. St
34; 2Sm 3), vợ chồng (x. Lv 18) để bảo vệ đời sống riêng tư của mỗi người.
Y phục còn
phản ánh đời sống xã hội với những công việc khác nhau (x. 1Sm 25,48; Cn
31,10-31), trở thành quà tặng nói lên tình bằng hữu (x. 1Sm 18,3-4), trở thành
ân phúc của Chúa để chia sẻ cho những ai nghèo túng, không để họ phải trần
truồng, rách rưới (x. Ez 18,7; Is 58,7).
Đời sống, lời
rao giảng, nhất là mầu nhiệm chết đi-sống lại của Đức Giêsu Kitô đem lại ý
nghĩa mới mẻ cho cái mặc của con người và của Kitô hữu (x.Mt 6,28-33). Thiên
Chúa yêu thương toàn thể con người và vũ trụ nên đã sai Ngôi Lời, Con của Ngài,
xuống thế làm người. Dù là Thiên Chúa vô cùng giàu có và cao sang, nhưng Người
tự nguyện trở thành hài nhi, bọc tã nằm trong máng cỏ (Lc 2,7.12). Cuối đời, Đức
Giêsu bị lột hết y phục (x. Mt 27,35; Ga 19,23), nằm chết nhục nhã trên thập
giá như muốn đưa tất cả vào tình trạng nguyên thuỷ, khi con người được Thiên
Chúa bao bọc bằng tình yêu và ánh sáng của Ngài. Đức Giêsu đã báo trước tình
trạng này vài tuần trước đó, khi Người biến hình trên núi trong y phục huy
hoàng trắng tinh như ánh sáng (x. Mt 17,2), cũng như khi Người hiện ra với
Phaolô trên đường đi Damas (x. Cv 22,6-11).
Người Kitô hữu
không quan tâm đến y phục vật chất và sống theo tinh thần nghèo khó của Đức
Giêsu. Họ muốn lột bỏ con người cũ và mặc lấy người mới (x. Cl 3,10; Ep 4,24)
để thật sự “sống công chính và thánh thiện, nhờ đức tin và phép rửa”. Họ phải
‘mặc lấy Đức Kitô’ (Gl 3,25) là con người mới (x. CĐ. Vat.II, GS, số 22) để từ
nay trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, thành con cái của
Thiên Chúa. Mặc lấy Đức Kitô chính là mang một thứ y phục tinh thần mà Thánh
Phaolô đã diễn tả rất rõ trong đoạn thư gửi tín hữu Côlôsê 3, 7-15: “Hãy cởi bỏ
con người cũ là tất cả những gì tiêu cực như giận dữ, nóng nảy, độc ác, thoá
mạ, ăn nói thô tục và mặc lấy con người mới là lòng thương cảm, nhân hậu, khiên
nhu, hiền hoà, nhẫn nại, biết chịu dựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau, nhất là
mặc lấy lòng bác ái là mối dây liên kết tuyệt hảo”.
Kể từ Công
đồng Vaticanô II (1962-1965), người Công giáo vượt qua quan niệm Nhị Nguyên để
nhận ra "con người là một với thể xác và tinh thần, và phải coi thể xác là
tốt lành, đáng tôn trọng vì được Thiên Chúa tạo thành và sẽ được sống lại trong
ngày sau hết" (x. CĐ. Vat.II, GS, số 14). Hơn nữa, Thiên Chúa là nguồn
chân, thiện, mỹ. Tất cả mọi sự Ngài dựng
nên đều rất tốt đẹp (St 1,31; x. Thư ĐGH Gioan Phaolô II gửi văn nghệ sĩ,
4/4/1999) và cái đẹp là một trong ba thuộc tính cơ bản của hữu thể:
đúng-tốt-đẹp, nên người tín hữu phải tôn trọng và biểu lộ cái đẹp trong thân
xác cũng như qua quần áo, trang phục của mình. ĐGH Gioan Phaolô II nhắc bảo
rằng: "đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như cái tốt là điều
kiện siêu hình của cái đẹp và cả hai cái tốt và đẹp đều phải nằm trong cái thật
của hữu thể" (Thư gửi văn nghệ sĩ, số 3). Vì thế, bước sang thiên niên kỷ
thứ III, người Công giáo có quan điểm cởi mở hơn về y phục và tất cả những gì
liên quan tới thân thể con người vì muốn biểu lộ cái đẹp của Thiên Chúa qua
cách sống, ăn mặc, trang điểm của mình.
4. Chúng ta sẽ mặc gì và mặc như
thế nào?
Mỗi ngày trước
khi đi làm, đi học hay gặp một người nào đó, ta nên đặt ra cho mình một vài
tiêu chuẩn trước khi chọn lựa quần áo:
- Trang phục
phải phù hợp với hoàn cảnh và cộng đồng xã hội. Ta không thể mặc bộ quần áo với
màu sắc rực rỡ, tươi sáng để dự tang lễ của bất cứ ai, vì như thế là xúc phạm
đến người đã khuất và cộng đồng trước nỗi mất mát và cái chết. Đến những nơi
thờ tự ta cũng cần có những trang phục hết sức đúng đắn để tỏ lòng tôn kính
thần linh và tôn trọng niềm tin của người khác.
- Trang phục
phải phù hợp với đức hạnh và tư cách. Người xưa nhắc nhở rằng: "Y phục
xứng kỳ đức", nghĩa là ăn mặc phải tương xứng với đức hạnh và địa vị trong
xã hội. Một người tử tế, có văn hoá, sẽ biểu lộ đức hạnh của mình qua trang
phục họ mang: từ bộ quần áo, đến giày dép, mũ nón, ví cặp…
- Trang phục
phải đẹp và nâng cao phẩm giá con người. Tinh thần khiêm tốn, khó nghèo không
ngăn cản ta tôn vinh cái đẹp và nhân phẩm. Vẻ đẹp thể hiện qua màu sắc, kiểu
dáng của trang phục hài hoà với người mặc và cộng đồng. Chính việc chọn đúng
màu sắc đã nói lên phần nào tài năng, tính cách và đức hạnh của người mặc.
- Tuyệt đối
không bao giờ dùng trang phục khoe thân. Nhiều bạn trẻ hay phụ nữ mặc những bộ
quần áo quá mỏng để khoe thân. Họ đã tự đánh giá thấp bản thân, biến mình thành
một tượng đài hay vật dụng cho người khác ngắm nhìn theo những dục vọng của
người xem, hơn là biểu lộ những nét đẹp trong sáng cao thượng của một con người
toàn diện.
Lời kết
Vì thế, chúng
ta "hãy mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh
Đấng Tạo Hoá" (Cl 3,10). Chúng ta hãy “mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,25) vì
Người là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, đã đưa tính vĩnh hằng, vô biên, tuyệt
đối vào trong con người vô thường, tạm bợ, hữu hạn, nên mỗi hành động dù nhỏ bé
nhất của ta như ăn, mặc hằng ngày đều có giá trị vô cùng, đều tạo nên công đức
vì ta đóng góp vào cái đẹp vĩnh hằng của Thiên Chúa.
Lm. Antôn
Nguyễn Ngọc Sơn
Câu hỏi
1. Bạn thường chọn lựa quần áo như thế nào: chú ý đến màu sắc, kiểu
dáng hay không quan tâm đến chúng?
2. Bạn nghĩ phụ nữ Việt Nam
có nên mặc chiếc áo dài truyền thống trong những dịp lễ đặc biệt không? Tại
sao?
3. Bạn biết gì về cách phối màu cho quần áo bạn mặc hay chia sẻ cho bạn
bè để họ ăn mặc đẹp hơn?
4. Bạn đã mặc Đức Giêsu Kitô như thế nào?