HỎI ĐÁP VỀ THÁNH LỄ TRONG DỊP TẾT NGUYÊN ĐÁN
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS
WHĐ
(5.2.2021) – Trong những
ngày chuẩn bị mừng tết Tân Sửu, một vài câu hỏi được đặt ra cho các cử hành phụng
vụ theo truyền thống Việt Nam. Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt
Nam trân trọng giới thiệu tài liệu giải thích của linh mục Giuse Phạm Đình Ái,
dòng Thánh Thể, thành viên Uỷ ban Phụng tự.
Câu hỏi 1: Trong Sách Lễ Rôma [bản Việt ngữ 1992], liên hệ đến Tết
Nguyên Đán, có những Thánh lễ đặc biệt của riêng Hội Thánh Việt Nam phải không?
Trả lời: Đúng vậy.
Dựa theo văn hóa và truyền thống riêng của dân tộc Việt Nam cũng như dựa trên
tinh thần của Hiến chế “Phụng vụ Thánh” [= PV] (số 40), Hội đồng Giám mục Việt
Nam đã ra hai quyết định (vào 16/08/1971 và 04/1991) để hình thành một số
lễ đặc biệt cho Hội Thánh Việt Nam được gọi là lễ cầu mùa hay lễ theo truyền thống
dân tộc.[1] Những Thánh lễ đó là:
- 5 lễ vào dịp Tết Nguyên Đán: Tất Niên (tâm tình tạ ơn cuối năm); Giao Thừa
(cầu bình an cho năm mới); Mùng Một/ Tân Niên (cầu bình an); Mùng Hai (kính nhớ
tổ tiên và ông bà cha mẹ); Mùng Ba (thánh hóa công ăn việc làm).
- 1 lễ vào dịp Tết Trung Thu (cầu cho thiếu nhi)
- 1 lễ vào ngày 05/05 Âm lịch (cầu mùa)
- 1 lễ vào dịp Quốc Khánh 02/09 (cầu cho tổ quốc)
Câu hỏi 2: Có cần thay đổi gì trong phụng vụ để làm nổi bật nét văn hóa Việt Nam
trong các Thánh lễ vào dịp Tết cổ truyền không?
Trả lời: Cho đến
nay, trong tinh thần hội nhập văn hóa một cách thận trọng mà vẫn diễn tả đúng đức
tin Kitô giáo và nghệ thuật thánh đích thực, chúng ta có thể tác động trên một
số các yếu tố phụng vụ để tạo ra khung cảnh và bầu khí của ngày Tết cổ truyền
như: [i] Môi trường phụng vụ: trang trí thánh đường với các thực
thể hoặc biểu tượng của ngày tết như “cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”,
chưng các loại hoa như: mai, đào, lan, cúc, trạng nguyên… (QCSL 305); [ii] Cuộc
rước nhập lễ (chứ không phải tiến lễ) với bánh chưng bánh dày trong các lễ Tất
Niên, Giao Thừa, Mùng Một/ Tân Niên, với các sản phẩm do địa phương làm ra
trong Thánh lễ Mồng Ba Tết như biểu tượng cho một công việc đặc biệt hoặc căn
tính của cộng đoàn địa phương (CHTL 180);[2] [iii] Âm nhạc: sử dụng các bài thánh
ca phụng vụ mang âm điệu dân gian Việt Nam (QCSL 393; MVTN
90).
Ngoài ra, khi cử hành những Thánh lễ trên đây, vì phụng vụ không phải là những
hoạt động riêng tư nhưng là cử hành của toàn thể Hội Thánh (nói đúng hơn đó là
động tác của chính Chúa Kitô, Thủ Lãnh Hội Thánh và của Hội Thánh Người mà thừa
tác viên cử hành là đại diện) cũng như nhằm tránh ngộ nhận và gìn giữ sự hiệp
nhất trong Hội Thánh, “tuyệt đối không ai khác, dầu là linh mục, được lấy quyền
riêng tư thêm bớt hay thay đổi một điều gì trong phụng vụ” mà phải sử dụng một
cách đúng đắn các yếu tố sau cho phù hợp với ngày lễ/mùa phụng vụ (x. PV 22,
26): [i] Bài lễ/ bản văn phụng vụ đã được phê chuẩn nằm
trong Sách Lễ Rôma. Nên nhớ rằng bài lễ của các lễ theo truyền
thống dân tộc cũng đích thực là yếu tố phụng vụ đặc sắc và đậm chất văn hóa Việt
Nam; [ii] Bài đọc Kinh Thánh riêng của ngày lễ nằm trong Sách
Bài Đọc (QCSL 362, 390); [iii] Bài hát/thánh ca phù hợp
với ngày lễ và nghi thức cử hành (QCSL 47-48, 74, 86-87, 367, 393; MVTN 73,
133, 162, 179, 180, 183); [iv] Phẩm phục phụng vụ: Theo QCSL
342, tại Việt Nam, đang khi còn cần phải nghiên cứu về lễ phục phụng vụ sao cho
hợp với truyền thống dân tộc, trong khi cử hành Thánh lễ, không được sử dụng những
lễ phục chưa được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận và Toà Thánh châu phê. Vì vậy,
trong dịp Tết, các tư tế không nên tự tiện sử dụng các loại áo tụng/ áo dài
khăn đống… mà nên mặc phẩm phục được quy định cho những ngày lễ này là màu trắng
hoặc mặc lễ phục màu vàng vốn được coi là lễ phục long trọng tại Việt Nam vì là
màu vương giả quý phái (QCSL 346g, 390).
Câu hỏi 3: Tết cổ truyền năm nay vào dịp cuối tuần, vậy Thánh lễ chiều thứ bảy (mùng
2 tết) và Chúa nhật (mùng 3 tết) được cử hành Lễ Chúa nhật hay không?
Trả lời: Chúng ta
tham khảo Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [2000] tại các số
sau:
373. Lễ cầu cho
những nhu cầu khác nhau hoặc trong những hoàn cảnh khác nhau là những lễ được cử
hành trong một số hoàn cảnh hoặc đôi lúc xảy ra hoặc vào những thời kỳ nhất định.
Các vị có thẩm quyền có thể chọn trong các lễ cho các nhu cầu khác nhau làm lễ
Khẩn Cầu (Supplicationibus), mà Hội Đồng Giám Mục ấn định phải cử hành vào những
dịp nhất định trong năm. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chỉ định những ngày khẩn
cầu và sám hối trong năm như sau: a) Những ngày cầu mùa: 1.
Mồng Một Tết: Cầu cho năm mới; 2. Mồng Hai Tết: Cầu cho ông bà tổ tiên; 3. Mồng
Ba Tết: Cầu cho công việc làm ăn; 4. Tết Trung Thu: Cầu cho Thiếu nhi. b) Những
ngày sám hối: 1. Thứ Sáu quanh năm và mùa Chay (GL điều 1250); 2. Thứ
Tư lễ Tro. Vì Thứ Tư lễ Tro thường hoặc trùng vào dịp Tết Nguyên đán, nên Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam đã quyết định và đã xin Toà Thánh phê chuẩn để được dời việc
xức tro và ăn chay vào ngày thứ Sáu hoặc thứ Bảy tiếp theo. Khi phải dời, Hội Đồng
Giám Mục sẽ có thông báo cụ thể (x. Notitiae số 35 năm 2000, p. 32).
374. Khi gặp một
nhu cầu hoặc một lợi ích mục vụ quan trọng, Giám Mục giáo phận có thể ra lệnh
hoặc cho phép cử hành một Thánh lễ thích hợp vào bất cứ ngày nào, trừ các lễ trọng,
các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh, các ngày trong Tuần bát nhật
Phục Sinh, ngày lễ mọi tín hữu đã qua đời (2-11), thứ Tư lễ Tro và Tuần Thánh.
Thông thường, như Lịch Những Ngày Lễ Công Giáo (2020-2021) đã ấn định:
chúng ta được cử hành Thánh lễ Chúa nhật vào chiều thứ Bảy (mùng 2 tết) và Chúa
nhật (mùng 3 tết) trong dịp Tết Nguyên Đán năm nay. Tuy nhiên, chiếu theo Quy
chế Tổng quát Sách lễ Rôma (các số 373-374) vừa trích dẫn ở trên, vào
chiều thứ Bảy (mùng 2 tết) và Chúa nhật (mùng 3 tết), chúng ta được phép và rất
nên cử hành Thánh lễ Mồng Hai Tết (kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ) vào cả
ngày thứ Bảy và Thánh lễ Mồng Ba Tết (thánh hóa công ăn việc làm) vào Chúa nhật
vì những Thánh lễ này được coi là ưu tiên hơn Thánh lễ Chúa nhật mùa Thường
niên. Mặt khác, đó là những lễ theo truyền thống dân tộc và mỗi năm chỉ xảy ra
một lần (xem phần trả lời câu hỏi 1).
Câu hỏi 4: Đối với các cộng đoàn nước ngoài cử hành Thánh lễ ngoại ngữ thì như thế
nào?
Trả lời: Vì 5 lễ
vào dịp Tết Nguyên Đán [là Tất Niên (tâm tình tạ ơn cuối năm); Giao Thừa (cầu
bình an cho năm mới); Mùng Một/ Tân Niên (cầu bình an); Mùng Hai (kính nhớ tổ
tiên và ông bà cha mẹ); Mùng Ba (thánh hóa công ăn việc làm)] thuộc về những
ngày lễ đặc biệt cho Hội Thánh Việt Nam được gọi là lễ cầu mùa hay lễ theo truyền
thống dân tộc (dành cho tín hữu Việt Nam khắp nơi trên thế giới), cho nên cộng
đoàn nước ngoài vẫn cử hành Thánh lễ Chúa nhật như thường vào chiều thứ Bảy
(mùng 2 tết) và Chúa nhật (mùng 3 tết).
Câu hỏi 5: Nhiều nơi có thói quen cử hành Thánh lễ mùng 2 tết tại đất thánh (nghĩa
trang), xin giải thích và hướng dẫn cử hành này.
Trả lời: Như phần
trả lời câu hỏi 1 cho thấy “Thánh lễ Mùng Hai Tết” thuộc về phụng vụ rất riêng
biệt của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, chúng ta hiểu Thánh lễ này được cử hành
thích hợp tại nhà thờ/nhà nguyện chứ không thấy thẩm quyền Hội Thánh đề nghị
hay quy định cử hành tại nghĩa trang/ đất thánh. Vì vậy, thực hành cử hành
“Thánh lễ Mùng Hai Tết” tại nghĩa trang/ đất thánh Công giáo là một sáng kiến mục
vụ hơn là thực hành thuộc về luật pháp và phụng vụ đúng nghĩa.
Có lẽ thực hành này phát sinh bởi những lý do sau: [i] Theo
tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội
Thánh đã chỉ định Ngày mồng một Tết Nguyên Đán, là Ngày cầu Hòa
Bình cho gia đình, dân nước và thế giới. Ngày mồng hai Tết, cầu
nguyện cho tiên nhân, cho ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc đã qua
đời, theo tinh thần của Đạo Hiếu. Ngày mồng ba Tết, Ngày
Cầu Mùa, để xin Chúa chúc lành cho công việc làm ăn được phát đạt;[3] [ii] Bản văn phụng vụ của “Thánh lễ
Mùng Hai Tết” có chỗ hướng chúng ta đến việc cầu nguyện cho tiền nhân, những
người đã “ra đi” trước chúng ta: “Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi
công đức một niềm tri ân” (Ca nhập lễ); “Phúc thay kẻ nhắm mắt
lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây
họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi” (Ca
nhập lễ); “Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng ân xuống
trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa hưởng phúc
ấm của các ngài” (Lời nguyện tiến lễ); [iii] Bài đọc
I trích trong sách Huấn Ca nói về tổ tiên và ông bà cha mẹ với “mồ yên
mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế”.
Thực hành cử hành “Thánh lễ Mùng Hai Tết” tại nghĩa trang/ đất thánh Công
giáo hiện đã lan truyền tại nhiều giáo xứ. Vậy có nên tiếp tục thực hành này
không? Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta cần làm một so sánh:
“Thánh lễ Mùng Hai Tết” rất khác với “Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”
được cử hành vào ngày 02/11 hàng năm và vốn thường diễn ra tại nghĩa trang/ đất
thánh Công giáo. Ngoài ngày 02/11 ra, giáo xứ có thể cử hành Thánh lễ tại nghĩa
trang/ đất thánh Công giáo (chẳng hạn hàng tháng) với bài lễ “Cầu cho các tín hữu
đã qua đời” (QCSL 355, 381) và với lễ phục màu tím/ màu đen (QCSL 346). “Thánh
lễ Mùng Hai Tết” cũng khác với tất cả những “Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã
qua đời” như thế.
Sở dĩ “Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” (02/11) được cử hành [ngoài
trời] tại nghĩa trang/ đất thánh Công giáo là vì hôm ấy có thể coi là “ngày của
người quá cố”. Chúng ta hiện diện và cử hành Thánh lễ ở đây thì thật là thích hợp
để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả anh chị em tín hữu đã an giấc ngàn thu,
những người vẫn tiếp tục phải trải qua thanh luyện hầu đạt tới sự thánh thiện cần
thiết để sớm bao nhiêu có thể họ sẽ là những cư dân nơi thiên quốc (Roman
Martyrology). Hơn nữa, tất cả không gian/ khung cảnh bên ngoài tại nghĩa
trang/ đất thánh Công giáo cho thấy chúng hoàn toàn phù hợp với:
- [i] Bài lễ của “Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”
trong đó chúng ta khẩn cầu Chúa Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại (Ca nhập lễ
1; Lời nguyện nhập lễ 1&2), đã toàn thắng tội lỗi và thần chết (Lời nguyện
hiệp lễ 2; Lời nguyện nhập lễ 3), đã đổ máu ra làm lễ tế giao hoà mở lòng khoan
dung, từ bi nhân hậu mà rửa các tín hữu đã ly trần sạch mọi vết nhơ tội lỗi (Lời
nguyện tiến lễ 2; Lời nguyện hiệp lễ 3), xin Người cứu họ thoát khỏi vòng tội lỗi
(Lời nguyện hiệp lễ 2), giải thoát họ khỏi tử thần giam hãm và được sống muôn đời
(Lời nguyện tiến lễ 3)/ đem lại cho họ “sự sống mới” (Ca nhập
lễ 3)/ “sự phục sinh vinh hiển” (Lời nguyện nhập lễ 1)/ “vinh
phúc muôn đời” (Lời nguyện nhập lễ 2)/ giúp họ hưởng niềm vui
muôn đời” (Lời nguyện hiệp lễ 3)/ “chung hưởng vinh quang với
Con Một Chúa” (Lời nguyện tiến lễ 1)/ “vào nhà Chúa, nơi đầy
tràn ánh sáng và bình an” (Lời nguyện hiệp lễ 1)/ “cùng
Người hưởng vinh quang phục sinh” (Lời nguyện hiệp lễ 2)/ “muôn
đời chiêm ngưỡng Chúa là Ðấng tạo thành và giải thoát họ” (Lời nguyện
hiệp lễ 3);
- [ii] Bài đọc Kinh Thánh được công bố nhằm giúp chúng ta
thêm xác tín vào Thiên Chúa hằng sống (Bài đọc 1 - Lễ I), Đấng sẽ vĩnh viễn
tiêu diệt tử thần (Bài đọc I – Lễ II; Bài đọc 2 – Lễ III), Đấng có ý định không
để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết (Bài Tin Mừng – Lễ
I; Bài đọc 2 – Lễ III); xác tín vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người là sự
sống lại và là sự sống (Bài Tin Mừng – Lễ III, nhờ Máu của Người đổ ra mà chúng
ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và được hoà giải cùng Thiên Chúa
(Bài đọc 2 – Lễ I), Đấng có quyền năng làm cho những kẻ đã chết sống lại
trong ngày sau hết (Bài Tin Mừng – Lễ I); mời gọi về phía con người: ai tin vào
Đức Giêsu thì dù đã chết, cũng sẽ được sống, còn ai sống và tin vào Người thì sẽ
không bao giờ phải chết (Bài Tin Mừng – Lễ III), họ sẽ được sống muôn đời, được
sống lại trong ngày sau hết (Bài đọc 1 – Lễ I), được ở với Người trên Thiên
Đàng (Bài Tin Mừng – Lễ II), ai cùng chịu đau khổ với Người thì sẽ cùng được hưởng
vinh quang với Người (Bài đọc 2 – Lễ II); về các tín hữu đã qua đời: chúng ta
đang dâng hy lễ để cầu cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi (Bài đọc 1 – Lễ
III);
- [iii] Bài hát/thánh ca được cất lên có chủ đề về cuộc vượt
qua của Chúa Kitô, về lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta tràn
đầy hy vọng về số phận của những anh chị em đã qua đời sẽ được thoát hình khổ,
thoát vực sâu vô tận, được từ cõi chết trở về nguồn sống, nguồn sống mà Chúa đã
hứa cho Abraham và con cháu Người để rồi được Thiên Chúa cho sống mãi bên Chúa
(x. Ca nhập lễ - Ca hiệp lễ và Ca tiến lễ ngày lễ 02/11 trong Graduale
Romanum / Graduale Simplex).
Như vậy hầu như mọi yếu tố trong phụng vụ cho đến khung cảnh tại nghĩa
trang/ đất thánh đều phù hợp với ý nghĩa và tâm tình của “Thánh lễ cầu cho các
tín hữu đã qua đời” là “Hy lễ Thánh Thể tưởng niệm cuộc vượt qua của Chúa Kitô,
cầu cho những người đã qua đời, để nhờ sự hiệp thông giữa các chi thể trong nhiệm
thể Chúa Kitô, thì điều mang lại ơn trợ giúp thiêng liêng cho các chi thể này cũng
đem lại niềm an ủi cậy trông cho các chi thể khác” (QCSL 379).
Trong khi đó, “Thánh lễ Mùng Hai Tết” hướng chúng ta về tổ tiên, ông bà,
cha mẹ là những đấng cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng dục chúng ta
thành người (Lời nguyện nhập lễ). Trong ý hướng kính nhớ tổ tiên và ông bà cha
mẹ của “Thánh lễ Mùng Hai Tết” thì việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người
đã khuất chỉ là một phần vì đây không hẳn là ngày của người quá cố/ chỉ tập
trung vào những người đã ly trần. Phần còn lại, lớn hơn và quan trọng hơn chính
là giáo huấn của Hội Thánh liên quan đến đạo hiếu dành cho những người đang sống
như một hình thái của sự thực hành đức tin đích thực: không được sống dựa vào
truyền thống mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ
nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Bài Tin Mừng: Mt 15, 4-6). Đạo
hiếu ở đây có thể được hiểu như trong Cổ thư (Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ,
hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ) vì những lời răn
dạy này hoàn toàn phù hợp với thông điệp của Bài Tin Mừng ngày lễ Mùng Hai Tết
nói riêng và tinh thần của Kitô giáo nói chung: “Con cái sẽ đáp lại
công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm
con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh”.[4] Đạo hiếu là hiếu nghĩa cả với những đấng bậc đã
qua đời và những đấng bậc còn sống nữa. Đối với những bề trên đã qua đời, Hội
Thánh khuyến dụ chúng ta biết tôn kính và noi gương các bậc tiền nhân vì các
ngài là những người đạo hạnh, biết xót thương, tuân giữ Lề Luật, luôn tín trung
son sắt đến cùng trong đức tin vào Chúa (Bài đọc I: Hc 44,10-15). Đối với
bậc bề trên còn sống, Hội Thánh nhắc nhở chúng ta biết sống đạo làm con
trong việc vâng lời cha mẹ và tôn kính các ngài như một bài học
căn bản cho đời sống làm người và làm con cái Chúa (Bài đọc II: Ep 6,
1-3), “Con ơi giữ lấy lời Cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm” (Ca
nhập lễ). Lời nguyện chúng ta dâng lên Chúa cũng chính là cam kết của chúng ta
trong cuộc sống: “xin giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các
ngài” (Lời nguyện nhập lễ), “xin giúp chúng con ngày nay sống sao
cho tròn chữ hiếu đối với tổ tiên và ông bà cha mẹ” (Lời nguyện hiệp lễ).
Với những lý giải vừa trình bày, có lẽ sẽ không thích hợp lắm nếu chọn cử
hành “Thánh lễ Mùng Hai Tết” tại nghĩa trang/ đất thánh Công giáo. Hơn nữa,
trong một cử hành đặc biệt khá long trọng như “Thánh lễ Mùng Hai Tết”, cùng với
bản văn phụng vụ của “Thánh lễ Mùng Hai Tết”, chúng ta được phép và rất nên hát
kinh Vinh Danh (QCSL [1970] số 31; Notitiae 6 [1970] 263, no.
33; (QCSL [2002] số 53). Nhưng nếu hát kinh Vinh Danh ngay tại nghĩa trang thì thật
là bất thường (QCSL 53). Dường như cũng bất thường không kém khi vào dịp Tết
Nguyên Đán, chúng ta lại không theo chỉ dẫn của Lịch Những Ngày Lễ Công Giáo mà
đổi sang cử hành “Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” tại nghĩa trang với
lễ phục tím (QCSL 355, 381, 346), và nếu còn lôi cả bộ lễ mồ/cầu hồn ra hát vào
dịp này nữa thì thật là thảm họa. Sự thay đổi bài lễ/ áo lễ/ nơi cử hành Thánh
lễ như thế thực sự là không cần thiết và không thuộc ý định của Hội Thánh.
Để tránh những gì là không thích hợp và bất thường trên, nhiều nơi tiến
hành cử hành “Thánh lễ Mùng Hai Tết” với bản văn phụng vụ của “Thánh lễ Mùng
Hai Tết” tại nhà thờ vào buổi sáng. Còn vào buổi chiều thì cử hành Thánh lễ tại
nghĩa trang với bản văn phụng vụ và bài đọc Sách Thánh của “Thánh lễ cầu cho
các tín hữu đã qua đời”. Tuy nhiên, sáng kiến/ thực hành này nên tránh vì đụng
phải hai vấn đề: [i] Thứ nhất, [theo như bản trả lời câu hỏi 2
ở trên], vào ngày Mùng Hai Tết, tất yếu chúng ta nên cử hành Thánh lễ với đúng
áo lễ màu trắng/ áo vàng, đúng bản văn phụng vụ và đúng bài đọc Kinh Thánh
riêng của ngày lễ Mùng Hai Tết vốn được soạn thảo và quy định chỉ để sử dụng một
ngày trong năm. Điều này có nghĩa là không được thay thế áo lễ/ bài lễ/ bài đọc
của Thánh lễ Mùng Hai Tết; cũng không được “trộn lẫn” theo kiểu mặc áo tím rồi
sử dụng bài lễ và bài đọc của Thánh lễ Mùng Hai Tết; [ii] Thứ
hai, “Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” với bản văn phụng vụ và bài đọc
Kinh Thánh riêng của nó đã được cử hành cách long trọng tại nghĩa trang vào
ngày 02/11. Không những thế, chúng ta vẫn có thể cử hành “Thánh lễ cầu cho các
tín hữu đã qua đời” tại nghĩa trang nhiều lần khác nữa trong năm phụng vụ mỗi
khi cần thiết. Hơn nữa, ngày nào chúng ta cũng cầu “Xin Chúa cũng nhớ đến
anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc
biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly
trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn
nhan Chúa” (Kinh Nguyện Thánh Thể). Vậy hà cớ gì lại dùng bài lễ của
“Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” để thay thế cho bản văn phụng vụ và
bài đọc Kinh Thánh riêng của ngày lễ Mùng Hai Tết.
Từ những gì vừa trình bày, chúng ta rút ra kết luận thực hành cho phụng vụ
ngày Mùng Hai Tết như sau:
- [i] Thứ nhất, cử hành “Thánh lễ Mùng Hai Tết” tại nhà thờ
với lễ phục màu trắng/ vàng, với bản văn phụng vụ và bài đọc Sách Thánh của
“Thánh lễ Mùng Hai Tết”;
- [ii] Thứ hai, không nên cử hành Thánh lễ tại nghĩa
trang/ đất thánh Công giáo dù là với bản văn phụng vụ và bài đọc Sách Thánh của
“Thánh lễ Mùng Hai Tết” hay “Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”;
- [iii] Thứ ba, không được mặc lễ phục tím trong khi cử
hành Thánh lễ với bài lễ của “Thánh lễ Mùng Hai Tết”;
- [iv] Thứ tư, các tín hữu nên đến nghĩa trang/ đất thánh
để thăm viếng, chăm sóc mộ phần, tưởng nhớ và đọc kinh cầu nguyện cho tất cả những
người thân yêu đã được Chúa gọi về như một việc đạo đức cá nhân mà không cần
thiết phải có một thay đổi nào về phụng vụ (x. Hướng dẫn về Lòng Đạo đức
Bình dân và Phụng vụ (2001), số 260).
[1] “Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma” [2002] (=
QCSL), các số 373, 26, 395-399); “Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và lịch
chung Rôma”, các số 45-46.
[2] Xc. Catholic Bishops’ Conference of England
Wales, Celebrating the Mass (Catholic Truth Society, 04/2005),
180.
[3] Đường Thi Trương Kỷ, “Ý
Nghĩa Linh Thiêng Ngày Tết Nguyên Đán”, < https://gpcantho.com/y-nghia-linh-thieng-ngay-tet-nguyen-dan/>
[4] Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes,
số 48.