Nhằm nhấn mạnh
đến tính chất thống hối của mùa Chay, kinh Vinh Danh không được hát trong các Chúa nhật mùa
Chay, trừ ra trong dịp lễ trọng hay lễ kính. Như truyền thống đã đi vào
nghi lễ Rôma trong Sách lễ tiền Công đồng Vatican II và vẫn giá trị cho đến
nay, thánh lễ tiệc ly có hát kinh Vinh Danh để chỉ ra rằng mùa Chay đã kết
thúc. Đang khi hát thì rung chuông (chuông [nhỏ] cung thánh và chuông [lớn]
trên tháp chuông), sau đó, không rung chuông nữa cho đến kinh Vinh Danh của lễ
Vọng Phục Sinh. Đang khi cộng đoàn hát kinh Vinh Danh trong lễ Vọng Phục Sinh,
cũng có thể kéo chuông nếu có tục lệ này. Kinh Vinh Danh dĩ nhiên sẽ được hát
tiếp trong các Chúa nhật Phục Sinh, các ngày trong tuần bát nhật Phục Sinh và
các Chúa nhật thường niên nữa. Để biết thêm về kinh Vinh Danh, bài viết sau sẽ
dẫn giải các khía cạnh về lịch sử, ý nghĩa và mục vụ của lời kinh này.
LỊCH SỬ
Kinh Vinh Danh
trong thánh lễ - tức bài Gloria in excelsis Deo (Vinh danh thiên chúa trên các
tầng trời) - được gọi là “Vinh tụng ca lớn” (= “Lời đại tán tụng”) nhằm phân
biệt với “Vinh tụng ca nhỏ” là Kinh Sáng Danh (Gloria Patris).
Kinh Vinh Danh
là một trong những bài hát rất cổ xưa của Giáo hội thời kỳ đầu cùng với các
Kinh Pros hilarion (Ôi nguồn sáng huy hoàng) và Te Deum (Chúng con chúc tụng
Chúa).
Kinh Vinh Danh
được tìm thấy trong 3 phiên bản: i] Phiên bản Syria từ phụng vụ của phái
Nestorius; ii] Phiên bản Hy Lạp từ sách Hiến chế Tông đồ; iii] Phiên bản Hy Lạp từ phụng vụ Byzantin của
nghi lễ Đông phương. Phiên bản sau cùng có nội dung trùng khớp hầu hết với
phiên bản phương Tây.1 Kinh Vinh Danh bấy giờ không được sử dụng trong thánh lễ
mà là lời kinh chúc tụng ngợi khen được sử dụng như một bài thánh ca Rạng đông
Phục sinh và dần dần thuộc thành phần kết thúc của Kinh Sáng như trong nghi lễ
bên phương Đông. Bên Tây phương cũng vậy, chẳng hạn tại các tu viện vùng Ái Nhĩ
Lan và Pháp, kinh Vinh Danh hồi đầu không nằm trong thánh lễ.2
Bài ca này
xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ thứ IV, nhưng chỉ được đưa vào thánh lễ Rôma vào
đầu thế kỷ thứ V dưới thời của Đức Lêô Cả (400-461), lúc đó người ta chỉ hát
kinh Vinh Danh trong thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh vì là bài ca các thiên thần
hát tại Bêlem trong đêm Chúa xuống thế làm người (Lc 2,13-14).3 Thật ra trước
đó, ĐGH Telesphorus (128- 139?) đã ra lệnh phải hát kinh Vinh Danh trong thánh
lễ Giáng Sinh lúc nửa đêm.4
Sau đó, đến
đời Đức Giáo Hoàng Synmaque (498-514), kế vị Đức Gelasio, kinh Vinh Danh mới
được quyết định cho hát giữa phần kinh Nhập lễ (Introit) và kinh Thương Xót
(Kyrie) trong tất cả các thánh lễ Chúa nhật và lễ kính các thánh tuẫn đạo khi
do một vị giám mục cử hành.5
Sau cùng kinh
Vinh Danh được dành cho cả lễ các thánh giáo hoàng, rồi đến các thánh giám
mục.6 Căn cứ vào cuốn Sacramentarium Gregorianum, đặc quyền này của Đức Giám
mục tồn tại trong một thời gian khá lâu bởi vì cho đến thế kỷ VII, một linh mục
thường chỉ được phép hát kinh Vinh Danh mỗi năm một lần vào lễ Phục Sinh (đêm
Canh thức Vượt qua) và trong dịp thụ phong linh mục khi ngài được rước vào nhà
thờ họ để cử hành thánh lễ mở tay (theo nghi thức của St. Amand). Dần dần về
sau, khoảng cuối thế kỷ XI, kinh Vinh Danh mới trở nên phổ biến và mọi linh mục
cũng được quyền bắt hát như Đức Giám mục trong tất cả những ngày lễ Chúa nhật
và lễ mừng có tính chất long trọng trừ ra trong mùa Vọng và mùa Chay.7
Kinh Vinh Danh
vốn là một trong số vài bài nằm trong cuốn Ordo Missae La-tinh được phổ biến
hết sức rộng rãi từ thời Carolingian (751 - ...) ngay cả bên ngoài thánh lễ.
Bằng chứng là khi hoàng đế Charlemagne dẫn Đức Lêô III vào trong tòa nhà nghị
viện của đế quốc tại Paderborn
(năm 799), mọi người đã hát kinh Vinh Danh.8
Tới cuối thế
kỷ thứ VIII, kể như nghi thức mở đầu của thánh lễ gồm: ca nhập lễ, làm nổi bật
tinh thần ngày lễ; kinh Thương Xót (Kyrie); kinh Vinh Danh (Gloria); và lời
nguyện nhập lễ. Theo Jungmann, đến thế kỷ IX, luật chữ đỏ đòi buộc vị giám mục
chủ tế phải đối diện với dân chúng trong khi cất tiếng hát kinh Vinh Danh,
nghĩa là từ ban đầu kinh Vinh Danh hẳn là được hát bởi toàn thể cộng đồng.9
Giống như kinh Thương xót, từ lúc khởi đầu, kinh Vinh Danh là một bài hát mang
tính cộng đồng. Nhưng sau đó, kinh Vinh Danh được người ta thêu dệt thêm bằng
những giai điệu âm nhạc hoa mỹ và phức tạp khiến cho nó trở thành bài hát của
riêng ca đoàn.
Cấu trúc của
nghi thức mở đầu Thánh lễ (= ca nhập lễ + kinh Thương xót (Kyrie) + kinh Vinh
Danh (Gloria) + lời Tổng nguyện) đã được Sách lễ Rôma của Đức Phaolô VI
(1969/1970) lấy lại từ phụng vụ thế kỷ VIII, tuy nhiên thêm vào đó nghi thức
sám hối mặc dầu nghi thức này mãi thế kỷ IX mới có.
Tập tục như
chúng ta thấy hiện nay, coi như đã thành hình từ thế kỷ XI, nghĩa là kinh Vinh
Danh được hát vào tất cả những Chúa nhật và những ngày lễ kính, lễ trọng, ngoại
trừ những ngày thống hối trong toàn Giáo hội Tây phương.10
Ý NGHĨA11
Kinh Vinh Danh là một thánh thi
chúc tụng và khẩn nài hướng lên Chúa Cha và Đức Kitô (Quy chế Tổng quát Sách lễ
Rôma = QCSL, số 43). Toàn bản văn chia làm 3 phần: i] Đoạn mở đầu; ii] Đoạn
hướng về Chúa Cha; iii] Đoạn hướng về Đức Kitô.
A. Đoạn mở đầu: Lời ca thiên thần trong đêm Chúa Giáng Sinh
Vinh danh
Thiên Chúa trên các tầng trời,/ và bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương (cho người thiện tâm).
Lời này được
tổng hợp từ nhiều bản văn Thánh Kinh, đặc biệt từ lời ca ngợi do các thiên thần
hát lên trong đêm Chúa Giáng Sinh tại Bêlem (x. Lc 2,13-14). Vì vậy, nó còn có
tên gọi là Thánh ca Thiên Thần (x. Ga 1,29; Tv 109, 1; Cv 2,34-36).12
Khi thiên thần
hát “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời” trong đêm Chúa Giáng Sinh tại
Bêlem, chúng ta hiểu ngay rằng đây là những lời nhằm ca tụng vinh quang và lòng
nhân hậu của Thiên Chúa Cha - Đấng đang ngự trên trời - chứ không nhắm đến Chúa
Giêsu và câu này trở thành như một lời loan báo vui mừng về vòng tay ôm ấp giữa
trời và đất. Chính Chúa Cha đã thực hiện ơn cứu chuộc cách tỏ tường qua mầu
nhiệm nhập thể và chương trình này, tức “Ca tụng tôn vinh danh Thiên Chúa và ơn
cứu rỗi cho nhân loại” chưa “đạt tới” sự trọn vẹn cho đến khi Chúa Giêsu chịu
nạn chịu chết trên thập giá làm hy tế dâng lên Chúa Cha; chương trình này vẫn
đang hiện thực mỗi khi Hội Thánh quy tụ nhau để cử hành Thánh Thể và cất lên
lời ca này.13
Mệnh đề “cho
người thiện tâm” là dịch sát theo bản Latinh “homminibus bonae voluntaris” được
rút từ bản Vulgata (Lc 2,14) mà bonae voluntaris chỉ được dịch lại từ chữ
êuđôkia của nguyên bản Hy Lạp. Trong Thánh Kinh, hai từ êuđôkia và êuđôkêin nói
lên đặc ân hay lòng tốt của Thiên Chúa dành cho kẻ được Ngài tuyển chọn. Cho
nên anthropôi êuđôkia dịch là những người được Thiên Chúa yêu thương giáng phúc
(loài người Chúa thương) thì thích hợp hơn cho “người thiện tâm”, nghĩa là
Thiên Chúa không chỉ giới hạn ban bình an cho người có thiện tâm mà cho tất cả
những ai đẹp lòng Người. Ở đây cũng có thể hiểu là ơn cứu độ của Chúa không chỉ
dành riêng cho nhúm người có thiện tâm hay dành riêng cho người Do Thái, mà cho
tất cả mọi người.14 Nói cách khác, bình an chính thức và siêu nhiên không thể
do tự thiện tâm con người mà có, nhưng phải nhờ tình thương Thiên Chúa ban
tặng.15
B. Đoạn thứ II: Lời tôn vinh Thiên Chúa
Chúng con ca
ngợi Chúa, chúng con chúc tụng Chúa (Br 3,6; Tv 145,2),/ chúng con thờ lạy
Chúa, chúng con tôn vinh Chúa (Kh 4,11; Rm 11,36; 1Cr 6,20),/ chúng con cảm tạ
Chúa vì vinh quang cao cả Chúa (1Bns 16,24; 2Cr 4,15)./ Lạy Chúa là Thiên Chúa,
là Vua trên trời (Kh 4,8; Tb 13,7; Dn 4,37),/ là Chúa Cha toàn năng (St 17,1-2;
2Cr 6,18).
Tiếp nối chủ
đề lời ca của các thiên thần, đoạn này diễn tả sự nối kết giữa trời và đất
trong những lời ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa qua 5 động từ tuôn ra một mạch
theo thể thức tôn thờ của các thánh thi cổ xưa. Năm động từ này là: ca ngợi;
chúc tụng; thờ lạy; tôn vinh; và cảm tạ Chúa được vang lên như những làn sóng
đại dương không ngớt trào dâng mà đỉnh cao là “chúng con cảm tạ Chúa vì vinh
quang cao cả Chúa”.16 Kiểu tung hô chúc tụng như thế đã tồn tại trong phụng vụ
từ rất xa xưa, là một thói tục diễn ra trong buổi phụng tự công cộng dành cho
các hoàng đế, nhưng sau đã được tu chỉnh, được “rửa tội” để dùng trong Giáo
hội.17
Đoạn này tiếp
tục nhấn mạnh đến vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ bằng ngôn từ hay trưng
ra một chuỗi danh hiệu: Ngài là Thiên Chúa (Deus), là Vua trên trời (Rex
caelestis), đặc biệt Ngài là Cha toàn năng (Pater omnipotens), một cụm từ đã có
trong kinh Tin Kính các Tông đồ (Symbolum apostolicum), thường xuất hiện trong
các thánh thi cổ cũng như Thánh Thi Te Deum. Vì vậy, loài người phải bày tỏ
thái độ “chúc tụng, thờ lạy, tôn vinh và cảm tạ” dành cho Ngài.18
C. Đoạn thứ III: Lời kêu cầu Đức Giêsu
Lạy Con Một
Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô (Ga 1,14. 18),/ Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Chiên
Thiên Chúa / là Con Ðức Chúa Cha (Kh 1,8; Ga 1,29). Chúa xóa tội trần gian, xin
thương xót chúng con (Ga 1,29); Chúa xóa tội trần gian, xin nhậm lời chúng con
cầu khẩn (Ga 14,13). Chúa ngự bên hữu Ðức Chúa Cha (Cl 3,1; Dt 8,1), xin thương xót chúng con.
Vì, lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Ðấng Thánh (Kh 15,4), chỉ có Chúa là
Chúa (Is 37,20), chỉ có Chúa là Ðấng Tối Cao (Tv 83,18), cùng Ðức Chúa Thánh
Thần ( Rm 8,9; 1Pr 3,8) trong vinh quang Ðức Chúa Cha (Lc 9,26; Ga 1,14; Pl
2,11).
Trước hết,
đoạn này quy hướng về Chúa Kitô với những danh hiệu chính của Ngài là: Chủ Tể
(Dominus); Thiên Chúa (Deus); Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei); Con Chúa Cha
(Filius Patris). Nghĩa là Chúa Kitô vừa là Thiên Chúa uy quyền, đồng bản thể
với Chúa Cha, vừa là Đấng Cứu Chuộc nhân loại (Chiên hy tế là tước hiệu quy về
công trình cứu độ của Đức Kitô). Chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa (Filius
Patris) mới là phản ánh trung thực vinh quang của Thiên Chúa Cha tại trần gian
(Dt 1,3).19
Bài ca sau đó
chuyển sang ca tụng Chúa Giêsu nhưng dưới dạng khẩn cầu với ba lời van nài như
trong các kinh cầu, trong đó, Hội Thánh không những nhắc nhớ công trình cứu độ
Chúa Kitô đã chết trên thập giá để xóa tội trần gian mà còn nhìn ngắm Ngài đang
khải hoàn ngự bên hữu Đức Chúa Cha.
Tiếp đó, Hội
Thánh xưng tụng Đức Kitô với ba danh hiệu: Đấng Thánh (Sanctus); Chủ Tể
(Dominus); Đấng Tối Cao (Altissimus) vốn đã từng nằm trong các công thức tuyên
xưng đức tin thời kỳ đầu Kitô giáo: nghĩa là, các tín hữu không những tuyên
xưng thiên tính của Đức Kitô mà còn muốn khẳng định bằng cả mạng sống mình là
họ chỉ tôn thờ một mình Người là Đấng Thánh, thuộc về thượng giới, là Kyrios
theo tinh thần của 1Cr 8,6 và Pl 2,11; còn các tà thần đều là thọ tạo phàm tục
vì thuộc về trần thế. Chỉ có thể hiểu những điểm này khi biết bối cảnh lịch sử
ra đời của kinh Vinh Danh: đây là thời kỳ thần dân phải tôn thờ hoàng đế; thời
kỳ của những lễ hội huy hoàng với những buổi thờ cúng các thần minh vốn bao gồm
cả những cuộc hiến tế công cộng; các Kitô cũng bị lôi kéo và bị ép buộc phải
tôn thờ hoàng đế và dâng hương cho các thần minh, nhưng họ đã cương quyết từ
chối mà chỉ tuyên xưng và tôn thờ một mình Đức Kitô với danh hiệu Kyrios. Hành
động này khiến họ bị nghi ngờ là đe dọa cho an ninh công cộng, là kẻ thù của
thần minh và đất nước, nên đã thường xuyên bị bách hại và phải trả giá bằng cả
tính mạng của mình.20
Phần cuối,
kinh Vinh Danh kết thúc với lời tôn vinh Đức Kitô, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha
vì cả Ba Ngôi đều chung nhau một vinh quang. Chính vì vậy bài ca này có tên là
Gloria (Vinh danh) và bên phụng vụ Đông phương đặt tên là Vinh tụng ca lớn
(doxologia major) đối lại với những Vinh tụng ca “ngắn”/ “nhỏ” (Gloria Patris)
như kinh “Sáng danh Đức Chúa Cha và...” . Vinh tụng ca kết thúc kinh Vinh danh:
“Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Ðấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ có
Chúa là Ðấng Tối Cao, cùng Ðức Chúa Thánh Thần trong vinh quang Ðức Chúa Cha”
xem ra cũng gần gần tương tự như Vinh tụng ca trong lễ quy của phụng vụ thánh
Gioan Kim Khẩu bởi vì sau khi tư tế cao rao: “Của thánh dành cho dân thánh!” khi
ngài đang giơ cao Mình Máu Thánh, ca đoàn sẽ đáp lại rằng: “Lạy Chúa Giêsu
Kitô, chỉ có Chúa là Ðấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, hướng đến vinh quang Ðức
Chúa Cha”.21
THỰC HÀNH
Không được
thay đổi bản văn của kinh này bằng một bản văn khác (QCSL 53).
Vị tư tế hay,
tùy nghi, một ca viên hay ca đoàn xướng lên, rồi mọi người cùng hát chung, hay
luân phiên giữa giáo dân và ca đoàn, hay chỉ ca đoàn. Nếu không hát thì phải
đọc, hoặc mọi người đọc chung, hoặc chia hai bè đối đáp (QCSL 53).
Dù có thể hát
hay đọc kinh Vinh Danh (x. QCSL 53; 126 / Nghi thức Thánh lễ, số 8) nhưng phải
cố gắng để bảo đảm kinh Vinh Danh được hát luôn luôn, ngoại trừ vì những lý do
mục vụ, bởi đây là một bài thánh ca mang tính lễ hội và là bài thi ca tự bản
chất; Cũng đừng bao giờ hát kinh Thương Xót rồi lại chỉ đọc kinh Vinh
Danh.22Joseph Gelineau đã nhận định rằng: “Đọc kinh Vinh Danh để rút ngắn thời
giờ là một giải pháp lai căng mà công cuộc canh tân đã sửa chữa”.23
Được hát hay đọc trong các Chúa nhật ngoài
mùa Vọng và mùa Chay, trong các lễ trọng và lễ kính, và trong các dịp lễ khá
long trọng (QCSL 53).
Nên sử dụng
bản hát mà mọi người trong cộng đoàn đều thuộc để việc ca hát mang tính cộng
đồng và mang lại một nét đặc sắc cho buổi cử hành.
Nhớ cúi đầu
khi đọc danh Ba Ngôi Thiên Chúa ở phần cuối và danh thánh Giêsu ở phần giữa của
kinh Vinh Danh (x. QCSL 275a).
Lm. Giuse Phạm Ðình Ái, dòng Thánh Thể, SSS