Mùa chay năm
nay bắt đầu từ ngày 1 tháng Ba. Sứ điệp Mùa Chay 2017 của Đức Thánh Cha
Phanxicô đã được ấn ký vào ngày 18 tháng 10 năm 2016, Lễ Thánh Luca Tông Đồ
Thánh Sử. Tuy nhiên, sáng ngày 7 tháng 2, 2017, Đức Ông Dal Toso, Tổng thư ký
Bộ phục vụ phát triển nhân bản toàn diện, mới giới thiệu sứ điệp này trong một
cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh.
Dưới đây là
toàn văn Sứ điệp Mùa Chay 2017. Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An.
LỜI CHÚA LÀ MỘT HỒNG ÂN. THA NHÂN LÀ MỘT HỒNG ÂN
Anh Chị Em thân mến,
Mùa Chay là một khởi đầu
mới, là một con đường dẫn đến mục tiêu nhất định là lễ Phục Sinh, là chiến
thắng của Chúa Kitô trên sự chết. Mùa Chay khẩn thiết kêu gọi chúng ta hoán
cải. Kitô hữu được yêu cầu quay về với Thiên Chúa “với tất cả tâm hồn họ” (Joel 2:12),
để từ khước việc hài lòng với những điều tầm thường và lớn lên trong tình bạn
với Chúa. Chúa Giêsu là người bạn trung thành, là người không bao giờ bỏ rơi
chúng ta. Ngay cả khi chúng ta phạm tội, Ngài kiên nhẫn chờ đợi sự trở lại của
chúng ta; qua sự trông đợi kiên nhẫn như thế, Chúa cho chúng ta thấy sự sẵn
sàng tha thứ của Ngài (x Bài giảng, 08 tháng 1 năm 2016).
Mùa Chay là mùa thuận lợi
cho việc đào sâu đời sống tinh thần của chúng ta qua các phương tiện thánh hiến
mà Giáo Hội mang đến cho chúng ta như ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Cơ sở của
tất cả những điều này là Lời Chúa, mà trong suốt mùa này, chúng ta được mời gọi
lắng nghe và suy ngẫm sâu sắc hơn. Giờ đây tôi muốn suy tư trên dụ ngôn người
đàn ông giàu có và ông Ladarô (Lc 16: 19-31). Chúng ta hãy để mình được linh hứng trong câu
chuyện đầy ý nghĩa này, vì nó mang lại chìa khóa để hiểu những gì chúng ta cần
phải làm để đạt được hạnh phúc chân thật và sự sống đời đời. Câu chuyện này khích
lệ chúng ta hãy chân thành hoán cải.
Tha nhân là một hồng ân
Dụ ngôn bắt đầu bằng việc
giới thiệu hai nhân vật chính. Người đàn ông nghèo được mô tả chi tiết hơn: ông
đã thê thảm đến mức không còn sức để đứng dậy. Nằm trước cửa nhà người đàn ông
giàu có, ông sống nhờ những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn của người nhà giàu.
Người ông đầy những vết lở lói và chó đến liếm các vết thương của ông (x.
20-21). Đây là một hình ảnh thật quá khổ đau; nó mô tả một con người bất hạnh
và đáng thương.
Cảnh này thậm chí còn gây ấn
tượng hơn nữa nếu chúng ta để ý rằng con người nghèo khổ này được gọi là
Ladarô: một cái tên đầy hứa hẹn, Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa hộ trì”. Nhân
vật này không phải là vô danh. Danh tính của ông được mô tả rõ ràng và ông xuất
hiện như là một cá nhân với câu chuyện của mình. Trong khi ông hầu như là vô
hình đối với người giàu có, chúng ta nhận ra ông như một ai đó quen thuộc. Ông
trở thành một khuôn mặt, và như thế là một hồng ân, một kho tàng vô giá, một
con người mà Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc, mặc dù tình hình cụ thể của ông
không hơn gì một kẻ bị ruồng bỏ (x Bài giảng, ngày 08 Tháng 1 2016).
Ladarô dạy chúng ta rằng tha
nhân là một hồng ân. Tương quan đúng đắn với con người bao gồm việc nhìn nhận
giá trị của họ với lòng biết ơn. Ngay cả một người nghèo nơi cổng nhà của người
giầu cũng không phải là một điều cồng kềnh gây phiền toái, nhưng là một lời mời
gọi hoán cải và thay đổi cuộc sống. Dụ ngôn này trước hết mời gọi chúng ta mở
cửa lòng mình cho tha nhân vì mỗi người đều là một hồng ân, dù cho người ấy là
láng giềng của chúng ta hay một người ăn xin vô danh. Mùa Chay là mùa thuận
tiện để mở cửa cho tất cả những ai đang túng quẫn và nhận ra nơi họ khuôn mặt
của Chúa Kitô. Mỗi người trong chúng ta gặp gỡ những người như thế mỗi ngày.
Mỗi cuộc sống mà chúng ta gặp gỡ phải là một ân sủng đáng được đón nhận, tôn
trọng và yêu thương. Lời Chúa giúp chúng ta mở rộng đôi mắt để đón tiếp và yêu
mến sự sống, nhất là khi sự sống ấy yếu ớt và mong manh. Nhưng để làm được như
thế, chúng ta phải suy tư nghiêm chỉnh về những gì Phúc Âm nói với chúng ta về
người giầu có.
Tội lỗi làm chúng ta đui mù
Dụ ngôn mô tả không thương
tiếc những điều ngược lại khi nói về người đàn ông giàu có (x v. 19). Không giống như anh Ladarô
nghèo, ông không có một cái tên; ông chỉ đơn giản được gọi là “một
người đàn ông giàu có”. Sự sang trọng của ông đã được nhìn thấy nơi
chiếc áo choàng lộng lẫy và đắt tiền. Vải màu tím thậm chí còn quý hơn vàng và
bạc, và do đó đã được dành cho các thần linh (Giêrêmia 10: 9) và các vị vua (x. Thủ Lãnh
8:26),
trong khi vải len mịn được dành cho một nhân vật gần như là thánh thiêng. Người
đàn ông rõ ràng phô trương về sự giàu có của mình, và có thói quen biểu diễn nó
hàng ngày: “ông ngày ngày yến tiệc linh đình” (câu 19). Nơi ông, chúng ta có thể
thoáng thấy sự băng hoại của tội lỗi, tiến triển qua ba giai đoạn kế tiếp nhau:
yêu mến tiền của, phù hoa và tự hào (x Bài giảng, ngày 20 tháng 9 2013).
Thánh Tông Đồ Phaolô nói với
chúng ta rằng “cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tim 6:10). Đây là nguyên nhân chính
của tham nhũng và một nguồn mạch dẫn đến ghen tị, xung đột và nghi ngờ. Tiền
bạc có thể thống trị chúng ta, thậm chí đến mức nó trở thành một thứ ngẫu tượng
độc tài (cf. Evangelii Gaudium, 55). Thay vì là một khí cụ phục dịch chúng ta để làm
điều thiện và thể hiện tình đoàn kết với người khác, tiền bạc có thể xiềng xích
chúng ta và cả thế giới vào một thứ luận lý ích kỷ không còn chỗ cho tình yêu
và gây trở ngại cho hòa bình.
Dụ ngôn sau đó cho thấy sự
tham lam của người đàn ông giàu có làm cho ông ta ra hư không. Tính cách của
ông ta được thể hiện qua dáng vẻ bề ngoài, nơi việc khoe khoang cho người khác
thấy những gì ông có thể làm. Nhưng vẻ bề ngoài ấy chỉ che đậy một sự trống
rỗng bên trong. Trong cuộc đời mình, ông chỉ là một tù nhân cho dáng vẻ bên
ngoài, cho các khía cạnh hời hợt và phù du nhất của đời người (x. thượng
dẫn., 62).
Bậc thấp nhất của sự suy
thoái đạo đức này là niềm tự hào. Người đàn ông giàu có này ăn mặc như một vị
vua và hành xử như một vị thần, mà quên rằng ông chỉ đơn thuần là một sinh linh
hay chết. Đối với những người bị băng hoại vì mê mải sự giàu sang, không có gì
tồn tại ở ngoài cái tôi của riêng họ. Những người xung quanh không có trong tầm
mắt họ. Hậu quả của việc bo thiết với tiền bạc là một loại mù lòa. Người đàn
ông giàu này không thấy những người nghèo, những người đang đói, đang bị
thương, nằm ở cửa nhà mình.
Nhìn vào nhân vật này, chúng
ta có thể hiểu tại sao Tin Mừng thẳng thừng lên án lòng yêu mến tiền của: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc
sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ.
Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6:24).
Lời Chúa là một hồng ân
Trình thuật Phúc Âm về người
đàn ông giàu có và anh Ladarô giúp chúng ta chuẩn bị tốt để tiến tới Lễ Phục
Sinh. Phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta đến với một kinh nghiệm khá tương
tự như kinh nghiệm của người đàn ông giàu có. Khi linh mục đặt tro trên đầu
chúng ta, ngài lặp lại những lời này: “Hãy nhớ rằng mình là tro bụi, một mai rồi
sẽ trở về bụi tro”. Cuối cùng, cả người đàn ông giàu có và người nghèo
đều qua đời, và phần quan trọng của dụ ngôn này nằm ở đoạn nói về những gì diễn
ra ở thế giới bên kia. Hai nhân vật đột nhiên phát hiện ra rằng “chúng
ta đã chẳng mang gì vào cõi đời này, thì cũng chẳng mang ra được gì” (1 Tm 6: 7).
Chúng ta cũng thấy những gì
xảy ra ở thế giới bên kia. Ở đó người đàn ông giàu có nỉ non cùng Abraham, là
người mà ông gọi là “cha” (Lc 16:
24,27), như một dấu chỉ cho thấy ông ta thuộc về dân Chúa.
Chi tiết này làm cho cuộc sống của ông ta xem ra mâu thuẫn đến tột cùng, vì cho
đến thời điểm này, chưa hề có chỗ nào đề cập về mối quan hệ của ông với Thiên
Chúa. Trong thực tế, không có chỗ cho Thiên Chúa trong cuộc sống của ông. Thần
minh duy nhất của ông là chính mình.
Người đàn ông giàu có chỉ
nhận ra Ladarô giữa những đau khổ của thế giới bên kia. Ông muốn người đàn ông
nghèo này làm giảm bớt đau khổ của mình bằng một giọt nước. Những gì ông van
xin Ladarô cũng tương tự như những gì ông đã có thể làm nhưng không bao giờ
làm. Abraham nói với ông: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã
nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh.
Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.” (c. 25). Trong thế giới bên kia,
một loại công lý đang được phục hồi và những điều bất hạnh trong cuộc đời được
cân bằng bởi điều tốt lành.
Dụ ngôn tiếp tục với việc
đưa ra một thông điệp cho tất cả các Kitô hữu. Người đàn ông giàu có xin
Abraham gửi Ladarô về cảnh báo các anh em của mình, là những người vẫn còn sống
trên dương thế. Nhưng Abraham trả lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng
cứ nghe lời các vị đó” (câu 29). Bác bỏ lời phản đối của người đàn ông giàu có,
Abraham nói thêm: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống
lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu” (câu 31)..
Vấn đề thực sự người đàn ông
giàu có vì thế được đặt lên hàng đầu. Cội rễ của tất cả căn bệnh của ông là sự
thất bại không chú ý đến lời Thiên Chúa. Kết quả là, ông không còn yêu mến
Thiên Chúa và càng ngày càng coi thường người láng giềng của mình. Lời Chúa
sống động và mạnh mẽ, có khả năng chuyển đổi trái tim và dẫn chúng ta trở về
với Chúa. Khi chúng ta đóng kín con tim chúng ta trước hồng ân Lời Chúa, chúng
ta cũng đóng kín con tim của chúng ta trước ân sủng là các anh chị em của chúng
ta.
Anh chị em thân mến, Mùa
Chay là mùa thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô,
cho việc sống trong Lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng
giềng của chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ
trong bốn mươi ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải
đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự
của hoán cải, qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân Lời Chúa, được thanh tẩy
khỏi những tội lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Kitô hiện diện nơi
những anh chị em cùng quẫn của chúng ta. Tôi khuyến khích tất cả các tín hữu
thể hiện tinh thần đổi mới này bằng cách chia sẻ trong các chiến dịch Mùa Chay
được thúc đẩy bởi nhiều tổ chức Giáo Hội tại những miền khác nhau trên thế
giới, và nhờ thế sẽ làm thuận lợi cho nền văn hóa gặp gỡ trong cùng một gia
đình nhân loại của chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để khi chia sẻ
trong chiến thắng của Chúa Kitô, chúng ta có thể mở cửa lòng chúng ta đối với
người yếu thế và người nghèo. Khi đó chúng ta sẽ có thể trải nghiệm và chia sẻ
đầy đủ niềm vui Phục Sinh.
Từ Vatican , ngày 18 tháng 10 năm 2016
Lễ Thánh Luca Tông Đồ
Thánh Sử
J.B. Đặng Minh An dịch