Thứ Năm, 9 tháng 3, 2017

NGẮM SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU

NGẮM
15 SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU


NGẮM 
DẤU ĐANH
                                                                                                                                                                                                                     

DÂNG HẠT


THAN HANG ĐÁ

  








NGẮM ĐỨNG TRONG MÙA CHAY

Trong Mùa Chay Thánh, các giáo xứ thường có nghi thức ngắm mười lăm sự thương khó Đức Chúa Giêsu hay còn được gọi là Ngắm Đứng. Đó là những bài kinh nguyện được cha Đắc Lộ soạn ra từ năm 1627. Các bài kinh này sau đó đã được soạn cho có cung giọng trầm bổng, ngân nga như ca nhạc để người nghe dễ suy gẫm. Có nhiều giọng Ngắm Đứng khác nhau (mặc dù bài văn chỉ là một) như: Giáo phận Bùi Chu, Thái Bình một giọng ; Hà Nội, Phát Diệm, Hải Phòng một giọng ; Bắc Ninh một giọng ; Nam Bộ một giọng … Những cung giọng này được truyền khẩu từ xưa tới nay và có một quy luật nhất định, nhưng gần đây cung giọng này đã bị sai lệch làm giảm đi phần nào những cảm xúc khi suy gẫm.
Nay sưu tầm được cuốn “ DÂNG HẠT, ĐỌC ĐOẠN ĐÓNG ĐANH, THÁO ĐANH TÁNG XÁC ĐỨC GIÊSU” của soạn giả Vũ Xuân Hoan phổ nhạc theo cung La thứ rất dễ để tập ngắm. Nhất là cho các bạn nào đã từng tham gia Ca đoàn và biết sơ về căn bản nhạc lý.
Sách này phổ nhạc theo cung giọng Giáo Phận Bùi Chu. Gồm có 15 ngắm sự thương khó Đức Giêsu ; Dâng Hạt ; phần Đọc đoạn cho nghi thức Đóng Đanh, Tháo Đanh, và táng xác Đức Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Cũng theo soạn giả, việc ngắm Đứng trong Tuần Thánh được tăng thêm phần long trọng bằng cách gõ trống mèn khi ngắm (gõ nèo), giống như cầm trống chầu trong chèo cổ Bắc Việt để thưởng cho những câu ngắm đúng quy cách hoặc tài khéo léo diễn tả của người ngắm. Như vậy người gõ nèo gọi là cầm trịch (giống như trọng tài các môn thể thao) phải là người có uy tín hiểu biết các quy cách của ngắm Đứng, thông suốt các cung giọng, biết nhận xét từng câu để thưởng nèo cho đúng. Khi gõ một tiếng “keng”, một tiếng trống “bung” và một tiếng trống “tùng” là một nèo. Gõ hai lần liên tiếp là nèo đôi (ít gõ nèo ba). Quy cách thưởng nèo được ấn định như sau: khi hết một đoạn hay một câu đã đủ nghĩa thì trong sách chữ Nho có khuyên một dấu tròn để người ngắm ngân dài (í hi hì, ư hừ) thì gõ một nèo. Có thể gõ hai nèo liên tiếp nếu gặp câu dài mà người ngắm không ngắt hơi và ngắm hay. Sau dấu khuyên bắt sang câu khác thì phải đọc chữ “hì” để chuyển giọng. Cả lúc đầu cất lên ngắm cũng vậy. Những câu dài từ mười sáu đến mười tám chữ tuy không có dấu khuyên nhưng người ngắm đủ hơi đọc hết thì cũng thưởng một nèo. Những câu ngắn tuy không có dấu khuyên nhưng là câu quan trọng nổi bật nhất trong ngắm thì cũng thưởng một nèo như các câu :
Ngắm 1: “Vậy Đức Giêsu thương thiên hạ.”; “Quỳ xuống rửa chân cho các đầy tớ cả”; “Đoạn Đức Giêsu lập phép Thánh Thể cho thiên hạ”
Ngắm 2 : “Thì Đức Giêsu lo buồn sầu não”
Ngắm 3 : “Này tôi đây”
Ngắm 4 : “Đức Giêsu thương mà giở mặt ra xem ông Thánh Phêrô”
Ngắm 5 : “Một là Giêsu”
Ngắm 6 : “Cho nên nát hết thịt ra xem thấy xương”
Ngắm 7 : “Tâu vua Giu-dêu”
Ngắm 8 :   Hai câu đầu dài mà ý nghĩa quan trọng, nếu không ngắt hơi thì thưởng nèo; “Này là người ấy”
Ngắm 9 : “Vác đi lâu ngã xuống đất”
Ngắm 10 : “Là vua Giu-dêu”; “khát nước”
Ngắm 12 : “đẹp lòng Đức Chúa Giêsu”
Ngắm 13 : “liền kêu cả tiếng rằng”; “đội ơn Cha cả đã chịu chết vì con dữ là chúng tôi”
Ngắm 14 : “Người ấy là Con Đức Chúa Trời thật”
Ngắm 15 : “Phải trái tim”; “Lòng Đức Mẹ đau lắm”; “Vì Người thảm thiết thương con lắm”; “Xin cho chúng con nhớ đến những sự thương khó Đức Chúa Giêsu xưa chịu chết vì tội thiên hạ”.
Tóm lại :
1.Thưởng nèo ở các câu có dấu khuyên khi người ngắm ngâm đúng quy cách.
2. Những câu quan trọng trong mười lăm ngắm nêu trên chỉ thưởng nèo khi người ngắm đọc hay và đủ hơi đọc hết câu dài.
    Những câu không có dấu khuyên mà người ngắm ngân như có dấu khuyên thì không gõ nèo.
3. Về Dâng Hạt: Thưởng nèo ở những câu đọc đến tên cực trọng Đức Chúa Giêsu và Đức Mẹ, khi có bái lạy, cúi đầu, kết hình Thánh Giá, triều thiên và những câu hết đoạn có ngân dài.
4. Sách của người cầm trịch và sách trên bàn ngắm đều giống nhau.
    Lời văn trong sách ngắm này có sửa đổi cho hợp với thể văn hiện đại và đã được Đức Giám Mục
    Giuse Vũ Duy Thống và linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy kiểm duyệt.
    Rất tiếc vì thời gian có hạn nên Ca đoàn không kịp đánh máy Encore nên đăng một vài ngắm làm mẫu. Nếu bạn nào yêu thích và có nhu cầu xin liên hệ số ĐT 01685662100 anh Bính.
    Rất mong được quý tiền bối chỉ giáo thêm để sửa đổi cho hoàn chỉnh.






NGẮM MƯỜI LĂM SỰ THƯƠNG KHÓ
ĐỨC CHÚA GIÊSU

Ngắm mười lăm sự thương khó Đức Chúa Giêsu. Thương ôi Con Đức Chúa Trời ra đời chịu trăm nghìn sự thương khó cho đến chết vì tội thiên hạ.

THỨ NHẤT:

Thứ Nhất thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đã đến ngày dọn mình chịu nạn mà chuộc tội cho thiên hạ, thì có thằng Giuđa là đầy tớ, Đức Chúa Giêsu đã nuôi nó nhiều năm, dạy dỗ những sự hiền lành. Ma quỷ giục lòng nó bán Đức Chúa Giêsu cho quân Giudêu ba mươi đồng bạc. Vậy Đức Chúa Giêsu thương thiên hạ toan liều mình chịu chết thì giã Đức Mẹ mà đi thành Giêrusalem là kẻ trợ nước Giuđêa. Song le trước khi chịu nạn thì đêm ấy, Đức Chúa Giêsu lấy nước mà quỳ xuống rửa chân cho các đầy tớ cả cùng rửa chân thằng Giuđa với, chẳng những nước không, cùng lấy nước mắt rửa chân nó nữa, vì thương tiếc linh hồn ấy rình mất. Đoạn Đức Chúa Giêsu truyền phép Thánh Thể cho thiên hạ mà nuôi lấy linh hồn loài người ta cho đến hết đời.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng đội ơn Đức Chúa Giêsu đã truyền Phép Thịt Máu Mình cho chúng con. Lại xin xuống sức giữ đạo cho trọn, chớ bắt chước thằng Giuđa bán Đức Chúa Giêsu làm vậy. Amen.


THỨ HAI:

Thứ Hai thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đêm ấy thấy tội thiên hạ cùng thằng Giuđa phải sa hoả ngục cùng kẻ ngày sau theo nó thì Đức Chúa Giêsu lo buồn sầu não liền vào một vườn làng ấy gọi là Giệtsimani, thì chọn ba đầy tớ đi cùng: Một là ông thánh Phêrô, hai là ông thánh Giacôbê, ba là ông thánh Gioan. Thì Đức Chúa Giêsu sấp mình xuống đất cầu cùng Đức Chúa Cha ba lần. Đang khi cầu nguyện thì Đức Chúa Cha sai một Thiên thần yên ủi Đức Chúa Giêsu vào chịu nạn cho cả và loài người ta được khỏi tội. Đoạn Đức Chúa Giêsu lo lắm, cho nên nhọc cả và mình những mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu lo buồn vì chúng con. Xin dốc lòng chừa mọi tội làm cho Đức Chúa Giêsu lo buồn làm vậy. Amen.


THỨ BA:

Thứ Ba thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đã biết thằng Giuđa cùng các quan dữ đã đến gần thì Đức Chúa Giêsu ra rước nó. Bấy giờ thằng Giuđa giả chước đến hôn mặt Đức Chúa Giêsu mà Người đã biết lòng nó độc thì nhịn mà chào nó. Đoạn liền hỏi các quan dữ rằng: “Bay đi tìm ai”, nó thưa rằng: “Chúng ta đi tìm Giêsu Nazaret”. Bấy giờ Đức Chúa Giêsu phán rằng: “Này Ta” nó liền ngã ra hết. Đoạn Đức Chúa Giêsu cho nó đứng dậy mà lại hỏi như khi trước. Nó lại thưa như vậy thì Người mới phó mình cho nó bắt. Khi ấy ông thánh Phêrô chém đứt tai một đầy tớ Thầy Cả Giudêu mà Đức Chúa Giêsu quở ông thánh Phêrô cùng chữa tai thằng ấy cho đã. Bấy giờ, quân dữ lấy lòi tói sắt cùng giây da mà buộc cổ và trói tay Đức Chúa Giêsu cùng đấm miệng ba mươi lần mà lôi đi. Đêm ấy Người ngã xuống đất bẩy lần mà quân dữ đạp dậy, có kẻ lấy lọng gươm mà thúc, có kẻ lấy đuốc khoa trước mặt lại châm vào mình cho tắt đi. Sau nữa đến sông thì nó đi trên cầu mà dòng dây bắt Đức Chúa Giêsu lội dưới sông lạnh lẽo giá rét.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu xưa chịu khó vì chúng con. Xin mở giây là tội buộc linh hồn chúng con. Amen.


THỨ BỐN:

Thứ Bốn thị ngắm: Khi quân dữ nộp Đức Chúa Giêsu cho Annát là cha vợ Caipha làm thầy cả Giudêu mà Đức Chúa Giêsu chịu nhiều sự khốn khó trong nhà ấy, đoạn mới nộp cho Caipha. Bấy giờ, có một người các quan xỏ tay vào bao sắt mà vả ngang mặt Đức Chúa Giêsu trước mặt thiên hạ. Thầy cả Giudêu nghe thấy Đức Chúa Giêsu xưng ra mình là Con Đức Chúa Trời thì mắng rằng “ấy bay đã thấy nó nói lời lỗi làm vậy còn tìm chứng nào làm chi nữa mà chẳng giết đi cho rồi”. Đêm ấy quân dữ bắt trói cánh tay Đức Chúa Giêsu vào cột đá mà lấy khăn che mặt đoạn nhổ cùng giật tóc và râu Đức Chúa Giêsu, lại lấy roi cùng bên dưới giầy đi mà đánh ngang mặt, lại vả thâu đêm bốn trăm lần. Đêm ấy, có kẻ hỏi ông thánh Phêrô rằng: “Mày phải đầy tớ Giêsu chăng”. Ông thánh Phêrô liền sợ mà chối ba lần rằng: “Tôi chẳng biết người ấy là ai”. Đức Chúa Giêsu thương mà trở mặt ra xem ông thánh Phêrô, bấy giờ người mới ăn năn tội ấy lắm, trở ra khóc lóc chẳng có khi đừng. Trọn đời đến sớm mai gà gáy nhớ đến tội xưa liền khóc lóc.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu. Xin cho chúng con mạnh sức mà xưng đạo Đức Chúa Giêsu ra, kẻo ngày nào chối chăng. Amen.


THỨ NĂM:

Thứ Năm thì ngắm: Khi quân dữ sớm mai nộp Đức Chúa Giêsu cho quan trấn thủ tên là Philatô mà quan ấy xét chẳng thấy sự gì lỗi thì khiến tha nhưng mà quân ấy kêu can chẳng cho thì Philatô phó Đức Chúa Giêsu cho mặc vua Hêrôđê xét. Mà Hêrôđê hỏi mọi lẽ, song le Đức Chúa Giêsu chẳng thưa một điều, cho nên vua ấy giận mà chê rằng: “Người này dại, nào biết gì mà nộp cho tao xét làm sao”, đoạn khiến lấy áo trắng cho mặc rằng: “ Người dại thì mặc áo ấy mà đem về trả quan Philatô”. Khi còn đi dọc đàng thì quân ấy đánh Đức Chúa Giêsu cùng làm những sự xấu hổ. Philatô thấy Đức Chúa Giêsu thì thương. Vốn thói Giudêu đến ngày lễ cả thường tha một người tù, cùng có đứa trộm cướp giết người tên là Baraba cầm đấy, thì Philatô hỏi dân rằng: “Một là Giêsu, hai là Baraba, bay muốn tha ai”. Bấy giờ, nó thưa lên rằng: “Tha Baraba, giết Giêsu mà chớ”.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu, xưa chịu xấu hổ vì chúng con. Xin cho chúng con được lòng kính mến Đức Chúa Giêsu trên hết mọi sự, chớ bắt chước quân Giudêu yêu kẻ gian dữ mà bỏ mặc mọi sự lành làm chi. Amen.


THỨ SÁU:

Thứ Sáu thì ngắm: Khi Philatô thấy dân chẳng chịu tha Đức Chúa Giêsu thì phó cho một cơ quân là sáu trăm sáu mươi sáu người mà khiến đánh Đức Chúa Giêsu cho đẹp lòng quân Giudêu. Bấy giờ, nó lột áo ra liền trói chân tay vào cột đá lấy ngành gai giây da cùng lòi tói sắt, đánh cả và mình Đức Chúa Giêsu dư năm nghìn đòn, cho nên nát hết thịt da xem thấy xương chẳng còn nơi đâu lành, mặt mũi chẳng còn hình tượng người ta nữa. Song le, bấy nhiêu quân ấy chẳng có ai thương Đức Chúa Giêsu sốt, nó đánh nhọc mỏi tay nhưng mà trong lòng Người còn muốn chịu khó nữa vì tội thiên hạ.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu phải đòn như kẻ trộm cướp trước mặt thiên hạ. Xin cho chúng con dốc lòng chừa tội, làm cho Đức Chúa Giêsu phải đòn làm vậy. Amen.


THỨ BẨY:

Thứ Bẩy thì ngắm: Khi quân dữ đã đánh Đức Chúa Giêsu đoạn, thì Người mặc áo vào mà áo ấy dính máu nơi dấu đòn đánh, thì quân dữ lại giật áo đi cho nên máu nơi dấu đòn đánh lại chảy ra theo. Nó liền khiến Đức Chúa Giêsu mặc một áo đỏ đoạn lấy những gai khoanh tròn làm nén đóng vào đầu Đức Chúa Giêsu, bảy mươi hai cái gai thì lọt vào óc, máu chảy xuống đầy mặt dòng dòng. Nó liền khiến Người ngồi, đoạn quỳ xuống nhạo rằng: “Tâu vua Giudêu” cùng nhổ ngang mặt. Có đứa lấy dùi mà vả trên gai lọt vào cho lắm, có kẻ thì vả ngang mặt cho nên máu trong miệng chảy ra.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu là Chúa thật trời đất. Xin cho chúng con thờ phượng cùng kính mến trên hết mọi sự, Amen.


THỨ TÁM:

Thứ Tám thì ngắm: Khi Philatô thấy các quan làm khốn Đức Chúa Giêsu quá lẽ lắm thì thương, mà ngờ là dân xem thấy hình tượng khốn nạn làm vậy cũng thương chăng thì Philatô đem Người lên nơi cao trước mặt thiên hạ mà rằng: “Này là Người ấy”. Dân liền kêu lên rằng: “Đem đi, đem đi, đóng đanh nó vào cây thập giá”. Philatô lại rằng: “Tao đóng đanh Vua bay làm sao”. Dân thưa rằng: “Chúng tôi có một vua tên là Cêrarê mà chớ”. Bấy giờ, Philatô thấy mất công, hãi dân cáo mình cùng vua chăng, thì phó Đức Chúa Giêsu cho dân đem đi giết.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu. Xin cho chúng con giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến trọn đời, chớ bắt chước quân Giudêu, chẳng nhìn Đức Chúa Giêsu làm vậy. Amen.


THỨ CHÍN:

Thứ Chín thì ngắm: Khi quân Giudêu đóng cây Thánh Giá nặng lắm, mà nó khiến Đức Chúa Giêsu vác đi thì Người yếu nhọc hết sức vác đi lâu ngã xuống đất mà quân dữ chẳng thương, lại đạp dậy giục đi cho chóng. Sau nữa, nó sợ Người chết dọc đường chẳng đến nơi chăng, thì nó mượn một người đi đàng vác đỡ. Khi ấy, cả và thiên hạ theo mà xem. Song le, những người mến Đức Chúa Giêsu thì thương khóc lóc mà Người trở mặt lại rằng: “Ở con thành Giêrusalem, chớ khóc thương ta làm chi, một khóc thương bay cùng con cháu bay ngày sau phải khốn mà chớ”. Đang khi Người còn vác Thánh Giá đi thì có một bà tên là Veronica, thấy mặt mũi Đức Chúa Giêsu những máu chảy ra, thì bà ấy trao khăn cho Người lọt mặt đi hết hình tượng Người in vào trong khăn ấy, rầy hãy còn ở thành Rôma.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu vác Thánh Giá nặng vì tội chúng con. Xin cho chúng con được lòng ghét tội kẻo làm khốn cho Đức Chúa Giêsu làm vậy. Amen.


 THỨ MƯỜI:

Thứ Mười thì ngắm: Khi quân dữ đem Đức Chúa Giêsu lên núi tên là Calavariô, là nơi những sọ kẻ phải giết vì có tội lỗi mà quân ấy khiến Đức Chúa Giêsu uống rượu với của đắng, đoạn nó lột áo ra, những máu nơi dấu đòn đánh lại chảy ra theo. Bấy giờ, nó bắt Đức Chúa Giêsu nằm ngửa trên Thánh Giá, liền lấy búa đóng đanh tay tả. Tay hữu thì nó buộc kéo hết sức, liền giãn xương ngực ra cho nên Đức Chúa Giêsu đau lắm. Đoạn nó lại kéo hai chân xuống cho đến lỗ nó làm đã sẵn mà đóng đanh vào. Bấy giờ, các quan lấy một ván viết chữ vào rằng: “Giêsu Nararét là Vua Giudêu”. Đoạn đóng ván ấy vào Thánh Giá. Ý quan viết chữ ấy cho xấu hổ, song le ý Đức Chứa Trời khiến viết chữ ấy cho thiên hạ biết Đức Chúa Giêsu dù mà chịu hèn hạ làm vậy thì cũng là Vua thật Giudêu cùng khắp mọi nước. Đoạn nó đào lỗ dựng Thánh Giá lên, khi ấy dấu hai tay Đức Chúa Giêsu bởi xác nặng thì xếch ra, máu chảy xuống đất dòng dòng. Bấy giờ bốn người các quan lấy áo ngoài Đức Chúa Giêsu cắt chia ra là bốn phần, còn áo trong thì để vậy mà bắt thăm ai được thì lấy hết. Đoạn, những Sãi cùng các quan cả và thiên hạ nhạo cười làm cho xấu hổ mà Đức Chúa Giêsu nguyện rằng: “Con xin Đức Chúa Cha tha tội cho nó vì lầm chẳng biết”.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu chịu đóng đanh vì cả và loài người ta. Xin dâng mình chúng con cho Đức Chúa Giêsu vì đã lấy hết máu mình ra mà chuộc tội cho thiên hạ. Amen.


THỨ MƯỜI MỘT:

Thứ Mười Một thì ngắm: Khi quân dữ đóng đanh Đức Chúa Giêsu, cùng đóng đanh hai người trộm cướp hai bên. Mà đứa bên tả mắng Đức Chúa Giêsu rằng: “Phải con Đức Chúa Trời sao chẳng chữa mình cùng chữa ta nữa”. Bấy giờ, người bên hữu mắng nó rằng: “Ta là kẻ có tội đáng sa hoả ngục chịu đóng đanh thì thật phải. Nào Người có tội lỗi gì mà chịu làm vậy, sao mày trách người làm chi”. Đoạn xin cùng Đức Chúa Giêsu rằng “Lạy Chúa tôi, khi nào lên nước trên trời nhó đến tôi cùng”. Bấy giờ, Đức Chúa Giêsu trở mặt lại cùng người ấy mà phán rằng: “Thật hôm nay Ta cho mà ở nơi vui vẻ cùng Ta”. Sau nữa, Rất thánh Đức Mẹ mắng tiếng đã mang con đi giết, thì Người đi theo dọc đàng thấy máu con rơi. Mà đến nơi Đức Chúa Giêsu chịu nạn. Khi các quan đóng đanh Người thì cũng như đóng đanh trong lòng Đức Mẹ với, vì người yêu con trên hết mọi sự. Vậy, Đức Chúa Giêsu thấy Đức Mẹ đứng gần ông thánh Gioan thì thương mà phán rằng: “Ở bà kia, ấy Gioan là con bà”. Lại phán cùng ông thánh Gioan rằng: “bà ấy là Mẹ mày”. Đức Mẹ nghe làm vậy thì lo buồn lắm vì đã biết thật một ít nữa Con chẳng còn ở cùng Mẹ nữa. Khi ấy là giờ ngọ, mà cả và trời đất liền tối tăm mù mịt. Mặt trời xem chẳng đáng. Chúa sinh nên muôn vật chịu nạn cùng chịu xấu hổ dường ấy.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu cùng Đức Mẹ. Xin cho chúng con được làm con rất thánh Đức Bà như ông thánh Gioan thuở xưa. Amen.


THỨ MƯỜI HAI:

Thứ Mười Hai thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu một giờ rưỡi ở trên Thánh Giá, mà ở lặng cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha thầm thĩ. Đoạn Đức Chúa Giêsu than thở cả tiếng rằng: “Đức Chúa Cha để Con chịu một mình làm sao”. Ý Người nói làm vậy cho thiên hạ biết Đức Chúa Giêsu chịu thương khó hết lòng hết sức vì chúng con. Đoạn Đức Chúa Giêsu mất máu thì kêu rằng: “Khát nước”. Quân dữ liền lấy dấm đưa lên cho uống. Bấy giờ, Người phán rằng: “Đã đoạn, ấy là hết việc chuộc tội thiên hạ”.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu. Xin cho chúng con đẹp lòng Đức Chúa Giêsu liên, chớ bắt chước quân Giudêu lấy của chua cho uống, ấy là chớ làm tội lỗi mất lòng Đức Chúa Giêsu nữa. Amen.


THỨ MƯỜI BA:

Thứ Mười Ba thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đã chảy hết máu mình ra, con mắt thì lõm vào, mặt mũi thì xanh xao, liền kêu cả tiếng rằng: “Con phó linh hồn ở tay Đức Chúa Cha”. Đoạn thì gục đầu xuống bên Đức Mẹ đứng như giã Đức Mẹ vậy mà linh hồn cực trọng ấy ra khỏi xác liền sinh thì. Bấy giờ, cả và thiên hạ liền động, núi non là đá vỡ ra, màn trong nhà thờ xé ra làm hai, mồ kẻ chết bỗng chốc liền mở ra mà trời đất thì u ám như thương Đức Chúa Giêsu đã chịu chết vì tội thiên hạ.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng đội ơn Cha cả đã chịu chết vì con dữ là chúng con. Xin dốc lòng chừa mọi tội làm cho Đức Chúa Giêsu chịu chết làm vậy. Amen.


THỨ MƯỜI BỐN:

Thứ Mười Bốn thì ngắm: Khi linh hồn Đức Chúa Giêsu ra khỏi xác, xuống ngục Tổ Tông cứu những linh hồn các thánh xưa ở đấy đợi trông Đức Chúa Giêsu xuống thế chuộc tội cho thiên hạ. Bấy giờ, quan tướng cùng nhiều người các quan thấy những phép lạ làm vậy, thì xưng ra rằng: “Người này là Con Đức Chúa Trời thật”. Liền đấm ngực ăn năn vì đã phạm tội cực trọng ấy.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng. Xin Đức Chúa Giêsu thương chúng con còn ở dưới thế. Trông ngày sau thấy mặt cực tốt cực lành như các thánh ở ngục Tổ Tông xưa. Amen.


THỨ MƯỜI LĂM:

Thứ Mười Lăm thì ngắm: Khi xác Đức Chúa Giêsu còn trên Thánh Giá thì có một người các quan lấy đòng mà đâm cạnh nương long Đức Chúa Giêsu phải trái tim. Bấy giờ, máu cùng nước chảy ra. Song le, khi ấy xác Đức Chúa Giêsu chẳng có đau vì đã sinh thì. Nhưng mà lòng Đức Mẹ đau lắm như đâm trong lòng vậy, vì nó chẳng thương khi còn sống cũng chẳng thương khi đã sinh thì. Đoạn hai người là đầy tớ Đức Chúa Giêsu, một là Giuse, hai là Nicôđêmô, cất xác xuống mà phó ở tay Đức Mẹ khóc lóc thương Con chẳng có khi đừng. Đoạn, tắm xác Đức Chúa Giêsu mà táng trong hang đá, cũng như cất xác Đức Mẹ với. Vì Người thảm thiết thương Con lắm khi cất xác Con thì như cắt ruột Mẹ ra vậy.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu để cho người ta cất xác xuống đất. Xin cho chúng con nhớ đến những sự thương khó Đức Chúa Giêsu xưa chịu vì tội thiên hạ mà tích trong lòng chúng con cho đến trọn đời. Amen./.


CHÚNG CON DÂNG 15 SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU CHO ĐỨC BÀ:

Lạy ơn Rất Thánh Đức Bà Maria, lòng rộng rãi cực nhân cực thương, xưa thấy Con là Đức Chúa Giêsu, Giuđa bắt nộp cho quân Giudêu, thì lòng Đức Bà đau đớn, như phải dao sắc thâu qua lòng vậy. Lại thấy Đức Chúa Giêsu chịu đòn đánh nát hết cả và mình, chịu đội mạo gai, vác Thánh Giá nặng, chịu đóng đanh mình trên cây Thánh Giá, chịu chết vì tội thiên hạ, thì lòng Đức Bà cùng cả và mình, lo buồn sầu não khóc lóc, như phải đóng đanh mình trên cây Thánh Giá vậy. Chúng con là kẻ rất hèn mọn, đã nguyện và ngắm mười lăm sự thương khó Đức Chúa Giêsu, thì dâng cho Đức Bà, như cây hoa đỏ Máu Thánh Đức Chúa Giêsu nhuộm, làm cho thơm tho loài người ta. Vì vậy chúng con cậy vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu cùng xin Đức Bà cầu cùng Đức Chúa Giêsu, cho chúng con được mạnh sức trong linh hồn, cùng biết nguyện ngắm, và mến những sự thương khó Đức Chúa Giêsu, cùng ở khiêm nhường, bằng lòng chịu những sự khốn nạn xấu hổ, cùng sự âu lo, lo buồn thế gian mà hằng giữ việc lành phúc đức, cho đến giờ qua khỏi đời này, được giữ một lòng kính mến Đức Chúa Trời, cho được ơn Đức Chúa Giêsu. Amen.





NĂM DẤU THÁNH ĐỨC CHÚA GIÊSU

30 KINH LẠY CHA, VÀ 5 KINH KÍNH MỪNG
CHIA RA LÀM SÁU PHẦN

THỨ NHẤT THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt chân tả Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà đóng đanh bằng mũi đau lắm, máu chảy ra ròng ròng.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; Lạy ơn Đức Chúa Giêsu chịu đóng đanh chân tả vì chúng con bởi đi đàng trái. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng; thương Đức Mẹ đau đớn trong lòng, như phải đóng đanh vậy. Xin cho chúng con chừa đi đàng trái, ấy là chớ làm tội lỗi nữa. Amen.

THỨ HAI THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt chân hữu Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà đóng đanh nơi có gân cùng mạch máu nhiều, cho nên cả và mình Đức Chúa Giêsu phải khốn.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; đội ơn Đức Chúa Giêsu xưa ở thế gian 33 năm, mỏi chân đi dạy dỗ chúng con, mà chúng con lại lấy đanh đóng chân cho. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng; thương Đức Mẹ phải khốn cùng Con; Xin cho chúng con hằng đi đàng ngay thật, là đẹp lòng Đức Chúa Trời liên. Amen.

THỨ BA THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt tay tả Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà lấy đanh sắt đóng vào đau lắm, bởi cả và mình Đức Chúa Giêsu nặng thì lỗ tay liền xếch ra, càng thêm đau đớn hơn nữa.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; đội ơn Cha Cả chẳng tiếc mình vì con dữ là chúng con. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng; thương Đức Mẹ phải đau đớn vì Con, Xin cho chúng con chừa sự chẳng nên, cho ngày sau khỏi bên tả Đức Chúa Giêsu là bên kẻ phải xa hoả ngục. Amen.

THỨ BỐN THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt tay hữu Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà bởi chẳng đến lỗ nó làm đã sẵn, thì nó buộc cổ tay kéo ra cho đến nơi, liền giãn xương ngực ra, cho nên đau đớn lắm thì mới đóng đanh vào.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; thương Đức Chúa Giêsu lấy tay làm những sự lành cho thiên hạ, mà người ta lại trả công cho làm vậy. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng; thương Đức Mẹ bởi yêu Con hơn mình thì thảm thiết lắm. Xin cho chúng con làm sự phúc đức, cho ngày sau được ở bên hữu Đức Chúa Giêsu, là bên kẻ đáng lên thiên đàng. Amen.

THỨ NĂM THÌ NGẮM:
Khi Đức Chúa Giêsu đã sinh thì, bấy giờ có một người các quan lấy đòng mà đâm cạnh nương long Đức Chúa Giêsu, phải trái tim, máu cùng nước chảy ra: bởi Người đã sinh thì, thì lòng Đức Mẹ đau đớn lắm, như phải dao sắc thâu qua Trái Tim vậy.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; đội ơn Đức Chúa Giêsu đã lấy hết máu trong trái tim đổ ra cho chúng con. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng: thương Đức Mẹ như phải dao sắc thâu qua trong lòng. Xin cho chúng con chớ yêu sự thế gian, mà bỏ nghĩa Đức Chúa Giêsu, yêu dấu chúng con, cho nên chịu chết làm vậy. Amen.

THỨ SÁU THÌ NGUYỆN: 3 KINH LẠY CHA,
Kính lạy đanh sắc thâu qua chân tay Đức Chúa Giêsu.
Lại nguyện 1 kinh Lạy Cha.
Kính lạy lưỡi đòng thâu qua cạnh nương long Đức Chúa Giêsu.
Lại nguyện 1 kinh Lạy Cha.
Kính lạy Thánh Giá, là giường Cha cả muôn vật nằm khi sinh thì. Xin Đức Chúa Giêsu lấy Thánh Giá, đanh sắc, lưỡi đòng, như chìa khóa mở cửa thiên đàng cho chúng con được vào. Amen.

DÂNG HẠT
Lạy ơn Đức Chúa Giêsu cùng rất thánh Đức Bà; chúng con dâng bấy nhiêu kinh nguyện này, nhớ đến những sự thương khó Cha Cả đã chịu chết vì chúng con.
Chớ gì chúng con có ngày nào được chịu sự gì khó, vì Đức Chúa Giêsu làm chứng, có lòng kính mến Cha cả trên hết mọi sự. Song le chúng con là kẻ yếu sức, cậy trông rất thánh Đức Bà thêm sức cho chúng con, được giữ đạo cho trọn, cùng xưng tên Đức Chúa Giêsu ra trước mặt thiên hạ. Amen.







THAN HANG ĐÁ I

Hĩ ôi, trong lúc bấy giờ,
Thì lòng Đức Mẹ xót như muối dầu.
Tuyết sương giá rét lạnh lùng,
Mà Mẹ đứng ở bên ngoài mồ con.
Mạch sầu sóng sánh hai hàng.
Lệ chan sầu thảm mọi đàng khốn thay.
Con ơi, Con hỡi có hay,
Mẹ còn dương thế Con nay vội về.
Con xưa đi khắp miền quê,
Khuyên răn người thế ăn năn đền bồi.
Con xưa chữa kẻ què chân,
Cùng người câm điếc, chết ra khỏi mồ.
Chúa Cha yêu dấu trần gian,
Cho nên chẳng tiếc Con Mình đền thay.
Con tôi chẳng  những là Con,
Là Thầy an ủi sự lành của tôi.
Khi xưa Mẹ lọt mồ hôi,
Cho Con những lúc đàng xa trở về.
Chẳng còn cùng Mẹ ngồi kề,
Cùng ăn, cùng nói mọi bề ủi an.
Con tôi nay đã nghỉ yên,
Mà Con để Mẹ mồ côi một mình.
Chớ gì Mẹ cũng hy sinh,
Cùng Con một thể để lòng an tâm.
Chân tay con phải đanh thâu,
Mạo gai thâu suốt trên đầu Con ơi.
Mặt Con xưa sáng hơn gương,
Mà rầy lai láng máu hồng tràn lan.
Thân Con lại phải giáo đâm,
Lòng Mẹ đâu thể yên lòng được chăng?
Nhân sao Con ở lặng yên,
Chẳng nói, chẳng dối của gì, Con ơi.
Bây giờ Mẹ muốn của riêng,
Thì xin đanh sắt, lưỡi đòng, mạo gai.
Của này Mẹ giữ làm ghi,      
Như là của trọng trong lòng Mẹ nay.
Xưa kia hang đá Bê-lem,
Sánh cùng Núi So ngày rầy cách xa.
Xác Thầy đầy tớ táng trong,
Huyệt sâu ngoài chắn một hòn đá to.
Làm cho Đức Mẹ cho vo,
Một  mình sầu thảm trở về, hĩ  ôi !
Lá vàng còn ở trên cây,
Tuyết sương đã hết, ngày rầy héo hon.
Thiên thần xưa đã khen tôi,
Rằng Bà có phúc mà rầy thấy đâu.
Thiên Chúa xưa ở cùng Bà,
Mà rầy Thiên Chúa chẳng còn cùng tôi.
Hợp như lời nói tiên tri,
Mê-ông linh cảm tuyên ca những lời.
Lại nthêm nhắn nhủ lòng ghi,
Rồi đây dao sắc đâm trong lòng Bà.
Bấy lâu năm ấy chẳng yên,
Ngày nay đã hợp ứng lời tiên tri.
Cúi đầu lạy Chúa Thiên cung,
Thương tha tội lỗi, trần gian tràn đầy.
Lại xin Đức Mẹ khoan dung,
Dủ lòng thương xót, chúng con mọn này.
Đời này còn ở trần gian,
Hết lòng sám hối ăn  năn tội tình.
Vững lòng thờ Chúa cho nên,
Khi hồn lìa xác được lên nthiên đàng.
Chầu bên tòa Mẹ vẻ vang,
Hát mừng Thiên Chúa đời đời. Amen.


THAN HANG ĐÁ II

Vậy con suy lúc bấy giờ,
Thật thì Đức Mẹ xót như muối lòng.
Non đông giá rét lạnh lùng,
Xác con đang ẵm trong lòng khóc than.
Mạch sầu sóng sánh đôi hàng,
Nhỏ sa liền giọt chứa chan đã đầy.
Mặt trời hầu lặn về tây,
Gio-an truyền gửi giãi bầy nhỏ to :
Nếu chẳng cất xác bây giờ,
Lỡ tối chẳng kịp Mẹ lo thế nào ?
Dù lòng Đức Mẹ khát khao,
Am xác  con mãi chẳng bao giờ rời.
Thương  con nước mắt chẳng ngơi,
Dường bằng biển đục quê khơi lờ mờ.
Song le Đức Mẹ bây giờ,
Cũng cho đầy tớ cất đưa táng Thầy.
Gio-an ẵm lấy xác Thầy,
Tắm lau các dấu máu dây khắp mình.
Đôi hàng nước mắt rinh rinh,
Đượm nhuần trên xác Thánh Linh chứa dàn.
Tắm xong mới lượm vào quan,
Đoạn đem đi táng trong hang đá dầy.
Bây giờ Đức Mẹ khoan thay,
Theo sau lẽo đẽo đắng cay không ngần.
Đôi hàng nước mắt theo chân,
Bước đi một bước ngàn lần nhỏ sa.
Đường đi nước mắt chan hòa,
Tắm luyện sẽ được đất đa tận này.
Thương ôi nhiều nỗi đắng cay,
Trời cao đất rộng phen này thảm đau.
Vì thương Cha Cả cực mầu,
Xác nằm hang đá âu sầu héo hon.
Khi còn kêu tiếng véo von,
Mặt chau, mày ủ thương Con Chúa Trời.
Tận thú cũng thảm bùi ngùi,
Chập chùng chân bước hình hài thiết tha.
Nước khe ranh rách chảy ra,
Dường như lâm khốc thương Cha cực lành.
Biển  như sóng lượn gập ghềnh,
Nước cuốn nước đổ như hình nước thương.
Non cao ngây ngất một dường,
Đầu nghiêng mình rũ thảm thương chất đầy.
Gió kia cũng thảm thiết thay,
Hiu hiu ngọn cỏ gió bay phập phờ.
Dường bằng gió xé xác xơ,
Vì thương Chúa trọng là Vua mọi loài.
Chớ gì tôi tớ mọn này,
Học đòi thơm thảo ngày đầy khóc thương.
Vì Cha cực trọng là giường,
Bây giờ phải chịu thảm thương nghìn trùng.
Thương ôi Mẹ Chúa Thiên Cung,
Bây giờ vò vọ chong vong một mình.
Xác còn nằm chốn hôi tanh,
Quân quan canh trực chung quanh chẳng rời.
Sầu tuôn rằng rặc xa khơi,
Đau lòng Đức Mẹ chẳng ngơi phút nào.
Con xin khóc lóc âu sầu,
Khóc vì lỗi phạm trước sau vô vàn.
Khóc vì Cha táng trong hang,
Khóc vì bảy sự Mẹ mang trong lòng.
Khóc thương Chúa trọng vô cùng,
Khóc thương Chúa táng ở trong hang này.
Khóc thương Đưc Mẹ khoan thay,
Cho con được táng hang này cùng Cha.
Thương ôi con lậy Đức Bà,
Vì thương Con Trọng đứt đa tâm tình.
Ở ngày dao đá cắt mình,
Chua xót lòng Mẹ như hình thảm thương.
Ở ngày dãi gió tắm sương,
Làm cho Mẹ phải ẩn nương lạnh lùng.
Ở ngày ngọc thấy tay không,
Thân Mẹ khắc khoải chong vong giữa đồng.
Ở ngày trời chuyển đất dùng,
Thấy Con vác nặng não nùng tâm can.
Ở giờ đanh sắt máu dàn,
Làm cho mắt Mẹ chứa chan giọt sầu.
Ở ngoài da vóc ủ mầu,
Làm cho ruột Mẹ tâm toan não nùng.
Ai xui gió thảm đùng đùng,
Ai xui biển lặng sóng dùng từng cơn.
Ai xui tảo mộc tứ phương,
Ủ ê lá bạc héo hon ngành vàng.
Thảm thương lòng Mẹ mọi đàng,
Con ơi, Mẹ biết tựa nương chốn nào.
Con ơi, lòng Mẹ khát khao,
Chớ gì xác Mẹ táng vào mộ Con.
Chớ gì giờ chết giục giồn,
Kẻo đau lòng Mẹ héo hon nhiều chiều.
Con Tôi xưa nói nhiều điều,
Bây giờ nằm lặng một chiều, Con ơi.
Con ôi, sao chẳng thương tôi,
Chong vong non quạnh mồ côi một mình.
Con ơi, Con có thấu tình,
Từ bi an bảo phân minh đến rầy.
Bấy lâu Mẹ thảm thiết thay,
Bây giờ Mẹ lại đắng cay không  ngần.
Con xin khóc lóc ăn năn,
Khóc xin Đức  Mẹ một phần sự thương.
Trách mình tội lỗi là dường,
Làm cho Cha phải muôn phương nghìn trùng
Trách mình tội lỗi bấy lâu,
Dường như đanh sắt đóng thâu nhiều lần.
Dám xin lậy Mẹ Cực Nhân,
Dẫn đưa con mọn tới gần Mồ Cha.
Mắt nhìn mạch máu chảy ra,
Miệng hôn dấu thánh chân Cha cực lành.
Lòng con cảm mến ninh ninh,
Tạc ghi vàng đá in hình tiếng xưa. Amen.








Lễ Hội Tuần Thánh
trong Văn hoá Dân tộc Việt Nam

Lễ hội Tuần Thánh là một lễ hội mang nét đặc thù của người công giáo Việt Nam, có nguồn gốc từ nền văn hoá dân tộc, được thích ứng với Đức Tin Công Giáo.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống tín ngưỡng từ lâu đời, thờ kính thần linh một cách rất sùng mộ. Nền văn minh Lạc Việt vẫn luôn trân quý, tôn trọng những sinh hoạt tập thể, nét hợp quần vui hội vẫn luôn được thể hiện trong đời sống. Xuân thu nhị kỳ cầu an, kính vía vị Thần thành hoàng thường biến thành những ngày lễ hội. Tại các làng giầu có, to lớn, lễ hội có thể kéo dài hàng tuần, linh đình rực rỡ, vui nhộn náo nhiệt. Làng nhỏ không mấy dư giả, lễ hội cũng vẫn trang trọng, đầy mầu sắc. Đỉnh cao của ngày lễ hội bao giờ cũng là ngày “vào hèm”, tức là ngày diễn lại sự tích của vị Thần thành hoàng.
Dựa vào truyền thống đó, ngay từ khi đạo Công Giáo được rao giảng tại Việt nam, các linh mục thừa sai Dòng Tên cũng đã biến những nghi thức Tuần Thánh thành những ngày hội, vừa để giáo dân biết thêm về mầu nhiệm trong Đạo, vừa thoả mãn được nhu cầu lễ hội của giáo dân, ngăn cản được giáo hữu đi xem lễ hội ngoài làng mà các ngài cẩn thận sợ đức tin có thể bị lung lạc. Tuần Thánh là dịp thuận tiện để tổ chức lễ hội, vì thường diễn ra vào mùa Xuân. Công việc đồng áng của nhà nông miền Bắc trước đây đã vãn. Nó cũng còn trùng vào các dịp lễ hội ở ngoài làng:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè.
Nhưng với người công giáo thì:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai Ngắm đứng, tháng ba ra Mùa.
“Ra Mùa” ở đây có nghĩa là hết Mùa Chay của công giáo, tức là Tuần Thánh và lễ Phục Sinh. Vào dịp này, các xứ Đạo miền Bắc ngày xưa thường tổ chức “tống lễ”, mừng lễ một cách rất long trọng, biến thành những ngày hội. Giáo dân khắp các họ lẻ tuốn về họ nhà xứ để tham gia lễ hội.
Lễ hội Tuần Thánh kéo dài ba bốn ngày. Chính thức vào hội là chiều Thứ Năm. Ta cần nhớ là các nghi thức Tuần Thánh theo sách lễ Rôma xưa đều được cử hành vào ban sáng. Sau cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô thứ 2, các lễ nghi mới cử hành vào buổi chiều như ngày nay. Vì thế thời đó, buổi chiều có thì giờ dành cho tổ chức lễ hội theo lễ nghi dân tộc. Chúng tôi dùng câu “theo lễ nghi dân tộc” ở đây, vì những nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa không làm theo nghi thức của Hội Thánh (theo sách chữ đỏ), mà diễn tả Tin Mừng theo tình cảm của dân tộc Việt Nam, để trình bầy Mầu nhiệm Cứu chuộc một cách sống động, qua các diễn biến như sau:

Rước Tiệc Chiên
Chiều Thứ Năm Tuần Thánh, tín hữu xưa diễn lại việc Chúa chủ tọa bữa tiệc ly ăn lễ Chiên vượt qua theo với nếp sống của văn hoá người Việt. Vì có đông người tham dự, không kể giáo dân mà còn có rất đông lương dân kéo đến xem, nên lễ hội thường được tổ chức tại sân cuối nhà thờ. Người ta trang hoàng một cái rạp trên bục cao để làm “nhà tiệc ly”. Ở xứ tôi nghe các cụ kể lại, có năm rạp ăn tiệc ly được cất toàn bằng mía, và lợp bằng bánh đa (bánh tráng nướng).
Những bàn tiệc được trang hoàng bằng những món ăn cao lương mỹ vị, những quả lạ trái mùa… Nhưng toàn là được đẽo gọt, sơn phết, bằng củ sắn, củ khoai lang, khoai sọ hay quả đu đủ…Chúng ta nhớ rằng mùa Chay xưa phải kiêng thịt đủ 40 ngày, nên mới có “Thứ Ba béo” trước Thứ Tư lễ Tro, để người ta ăn thịt cho thỏa mãn, hầu bước vào mùa Chay với những ngày dài kiêng thịt. Chính vì thế mà các món ăn trên bàn tiệc được làm chỉ để cho đẹp mắt. Trên bàn tiệc bao giờ cũng phải có mấy cây rau diếp, loại cây đã lên ngồng, trổ hoa vàng li ti như cánh bèo tấm, được bứng trồng vào cái tô men sứ làm tăng phần trang trọng. Việc này nhớ lại xưa dân Do Thái ăn chiên vượt qua họ cũng được lệnh phải ăn thịt chiên với rau diếp đắng (Xh 12,8).
Con chiên được đắp bằng cơm nếp mật. Bên ngoài dán bông làm lông, điểm thêm đôi mắt… và thế nào cũng phải có một lá cờ đỏ nhỏ, có thánh giá ở giữa, cắm trên lưng con chiên đó.
Cuộc rước tiệc chiên rất long trọng. Khởi hành từ một nơi có đặt tượng Đức Mẹ sầu bi, để đọc Đoạn “Đức Chúa Giêsu giã Đức Mẹ mà đi thành Giêrusalem”. Chiêng đổng trống cái vang vọng, phường kèn, phường trống râm ran. Những bàn tiệc được khiêng rước đi. Đi trước bàn tiệc là mười hai chức sắc đóng vai 12 tông đồ, mặc áo thụng lam có bối tử, đầu đội mũ quan viên, tay chống gậy tông đồ thếp vàng óng ánh. Mỗi vị có anh thanh niên mặc áo nậu cầm lọng đen che hầu. Rồi đến án thư rước con chiên, có che hai cây tàn đỏ, Vị linh mục chủ sự mặc áo capha đội mũ ba múi theo sau, có hai cây lọng xanh hộ tống.
Đến “nhà tiệc ly”, các vị ngổi vào vị trí hành lễ chung quanh bàn tiệc. Một thầy già trang trọng đọc bài “giảng sự thương khó Đức Chúa Giêsu” đoạn nói về việc Chúa ăn lễ Vượt qua. Đọc đến đâu, các viên chấp sự làm theo đến đó.
Nghi thức Rửa chân cho các môn đệ tiếp nối. Vị linh mục thay mặt Chúa Giêsu cử hành theo bài “giảng sự thương khó…”. Trước tiên là rửa chân cho Phêrô, trình thuật khúc này hơi dài vì Phêrô không đồng ý việc sư phụ lại rửa chân cho môn đồ, Chúa phải giải thích gương phục vụ của Ngài. Người được rửa chân kế là Giuda, rồi mới tới các tông đồ khác. Vì thế các chức việc được chọn làm tông đồ, ông nào cũng cố né ngồi chỗ thứ hai…
Nghi thức chấm dứt. Giáo dân vào nhà thờ để thông công Ngắm Đứng. Trong khi đó ngoài khuôn viên thánh đường, người ta đã thấy thấp thoáng “đám lính của các Thượng tế” mặc áo đỏ có nẹp, đội nón dấu, chân quấn xà cạp, tay mang gươm hay vác giáo, do “một quan cưỡi ngựa” chỉ huy, chuẩn bị hùng hổ đi lùng bắt Chúa. (ngựa này được đan bằng tre, phất giấy, người cưỡi cột chặt vào thắt lưng để mang ngựa theo, khi phi ngựa ông phải chạy).

Rước Kiệu Bắt
Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh là cao điểm của lễ hội. Hôm nay đúng là ngày “vào hèm” để diễn lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu Cứu Thế: “chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác” …
Mở đầu là cuộc rước Kiệu bắt, gọi là Kiệu bắt vì trong đó diễn lại việc Đức Giêsu bị quân dữ bắt đem đi hành hình. Cuộc rước này có tới ba kiệu: Kiệu bắt rước Tượng Chúa Giêsu vác Thánh Giá trên đường lên Núi Sọ, được khởi hành từ một nơi gọi là “Dinh Trấn Thủ”. Kiệu thứ hai rước Tượng Đức Mẹ sầu bi, có trái tim bị bảy cây kiếm đâm thâu, đặt tại một nơi khác gọi là thành Giêrusalem. Kiệu thứ ba là Tượng Thánh Gioan tông đồ, sắp tại nơi gần Dinh quan Trấn Thủ.
Kiệu Thánh Gioan về Giêrusalem báo tin cho Đức Mẹ: Chúa đã bị lên án tử và đang vác Thánh Giá ra pháp trường. Đức Mẹ vội vã theo Thánh Gioan đi đón để gặp mặt Chúa. Cứ thế, lộ trình của hai đoàn rước cùng tiến về nhà thờ. Khi hai đoàn kiệu gặp nhau, mỗi bên kiệu có một người “đọc đoạn” diễn lại những lời tâm tình của hai mẹ con khi gặp nhau trong cảnh bi thương ấy. Đức Giêsu yên ủi Đức Mẹ và xin Đức Mẹ trở về để khỏi chứng kiến cảnh Chúa bị hành hình. Nhưng Đức Mẹ nhất quyết đi theo đến tận nơi Chúa chịu đóng đanh để được góp phần đồng công cứu chuộc !… Khi người đọc đoạn bên kiệu Đức Mẹ đọc đến câu: “Con tôi đi đâu thì Mẹ theo đi đấy” … Trống chiêng lại lên hồi, hai đoàn rước nhập làm một, tiến vào nhà thờ, nơi đã dọn sẵn “đẳng ngắm” tượng trưng cho đồi Can-vê, pháp trường xử Chúa.

Đóng Đanh
Vào trong nhà thờ, cả ba kiệu cùng tiến lên gần cung thánh. Kiệu Chúa vác Thánh Giá được đưa vào hẳn trong cung thánh, sau bức màn ngăn cung thánh đã được buông sẵn. Kiệu Đức Mẹ đặt phía bên trái đẳng ngắm. Kiệu Thánh Gioan đặt phía bên phải, đối diên với kiệu Đức Mẹ.
Một vị “đọc đoạn” lão luyện, thường là một thầy già, có khi là một linh mục có giọng đọc diễn cảm, trang trọng đứng trên một bục cao để “giảng sự thương khó Đức Chúa Giêsu” qua đoạn quân Giudêu đóng đanh Chúa. Tiếng đọc đoạn thảm thương não nuột khi bổng khi trầm, lúc cao lúc dịu, diễn cảm tùy theo tình tiết mô tả cuộc hành hình. Thêm vào đó, khi đọc đến tình tiết nào thì từ cung thánh vọng ra những âm thanh đúng như được diễn đọc mô tả, như tiếng xé áo Chúa, tiếng xô vật Chúa trên Thánh giá, tiếng búa đóng đanh nghe chan chát chói tai rùng rợn… tiếng reo hò của quân dữ khi dựng Thánh giá lên…Quang cảnh ấy, âm thanh ấy làm nhiều người cảm động bật khóc thương Chúa…
Khi Thánh giá đã được dựng lên cũng là lúc bắt đầu ngắm 15 sự thương khó Chúa một cách trọng thể. Người ngắm mặc áo tang, được trống phách rước lên. Trong khi ngắm, được thầy già cầm trịch thưởng bằng những “lèo“ mèn, trống từ loại nhỏ đến loại lớn, lần lượt đánh nối theo nhau, thành một chuỗi âm thanh tiến cấp ! Những người ngắm giỏi thường được hưởng nhiều lèo, có khi lèo kép đôi, kép ba…
Cứ hết 5 ngắm, lại có một tốp thiếu nữ lên “dâng hạt” (ở xứ lớn có thể hai, ba dâu dâng hạt). Trong khi dâng hạt cũng có lèo thưởng.

Tháo Đanh, Táng Xác
Khi ngắm đến khoảng ngắm thứ 12, 13, ngoài nhà thờ có cuộc “tập đòn”. Người ta chuẩn bị cho việc tháo đanh, táng xác Chúa. Kiệu táng Xác là kiệu đặc biệt, phần chính kiệu là một “cái săng” lộng kính, được trang trí bằng những dây nả (lúa được rang lên cho nổ gạo ra như cái hoa, rồi dùng chỉ xâu lại).Các nhân viên phù giá kiệu táng xác (không gọi là đô tùy hay chân đòn đám ma) mặc đồ tang, tay cầm bộ “sênh”, tập khiêng kiệu cho có quy cách. Tiếng lệnh, tiếng sênh phải ăn khớp với bước đi cho đều, bày tỏ được sự cung kính cẩn trọng.
Kết thúc mười lăm ngắm và các dâu dâng hạt, đoàn người “tập đòn” ấy biến thành đoàn rước vào nhà thờ để tháo đanh, táng Xác Chúa. Đi trước kiệu là hai người đóng vai Giuse Amarithia và Nicôđêmô, mặc bộ đại tang, mỗi người mang theo một cái thang nhỏ, đầu thang có treo một cái búa và tấm khăn liệm trắng.
Khi hiệu lệnh đặt kiệu xong giữa lòng nhà thờ, bài giảng sự thương khó Đức Chúa Giêsu, đoạn tháo đanh, táng Xác được diễn đọc, hai vị đóng vai môn đệ tháo đanh Chúa cứ làm đúng theo diễn tiến của người đọc đoạn. Tượng Chuộc Tội được tháo xuống đặt trước kiệu Đức Mẹ, người ta cũng được nghe những tiếng than khóc thảm thiết của Đức Mẹ và Thánh Gioan qua sự diễn tả của những người nhập vai đọc đoạn. Cuối cùng thì Thánh Gioan cũng xin Đức Mẹ bớt sự phiền mà để cho môn đệ lo việc an táng.
Xác Chúa được liệm vào “săng”, vì “săng” được lộng kính nên mọi người có thể nhìn thấu. Kiệu táng Xác khởi hành. Mọi tín hữu tham dự đều mặc đồ trắng, đầu chít khăn tang, tay cầm nến sáng. Tiếng chiêng đồng, trống cái, tiếng lệnh, tiếng sênh cái, sênh con cứ tuần tự theo nhịp gióng ba vang lên. Khi tiếng sênh con vừa dứt là mọi người đồng loạt đưa cao cây nến và cất lên, cung điệu thảm thương chậm rãi, câu từ trong Kinh Cầu chịu nạn: “Chúa Giêsu đầy tớ táng trong hang đá - Thương xót chúng tôi” . Đoàn kiệu táng Xác cứ trang nghiêm lặp lại thứ tự những âm thanh ấy, cho đến hang đá.
Hang đá là mấy gian nhà đã được trang hoàng bằng cây tươi, cột lại thành đường vòm, chỉ có thể quỳ, nếu đứng phải lom khom, để mọi người vào kính viếng, hôn chân Chúa phải đi bằng hai đầu gối.
Khi kiệu táng Xác được đặt vào vị trí, linh mục chủ sự tiến vào hôn chân tượng Chúa đầu tiên. Ngài có xức dầu thơm để mọi người cảm nhận như hương thánh ân tràn vào tâm hồn qua việc tôn kính mồ Chúa. Người ta cũng đổ nả và hoa xoan vào “săng” khiến hang đá phảng phất một mùi thơm đặc biệt.

Đám ma Giuđa
Trong khi nhiều người còn đang chờ đến lượt lên hôn chân Chúa, thì ngoài kia lại có một đám tang nữa. Đó là đám ma Giuda. Tông đồ Giuda đã nhận 30 đồng bạc để nạp Chúa. Khi thấy Chúa bị án tử, y đem tiền trả lại các Thượng tế, họ không nhận mà còn tỏ vẻ khinh bỉ y, “và y đã ném bạc vào thánh điện, đoạn lui về mà ra đi thắt cổ” (Mt 27,5). Trong lễ hội có nơi còn làm một hình nộm Giuda, cho mặc quần áo xốc xếch, đem treo hình nộm ấy toòng teng trên một cây cao nào đó. Lại có một người đóng vai vợ Giuda đi tìm chồng, khi thấy Giuda treo cổ tự vẫn, nàng mới tri hô lên, người ta tuốn đến… Nàng khóc bù lu bù loa thảm thiết kề lể các tội của Giuda, và tiếc thay cho con người đã theo Chúa mấy năm trời mà vẫn bị tiền của che mất chân lý, lại thêm yếu lòng tin, thiếu lòng trông cậy và không có tình yêu mến, nên mới ra nông nỗi…
Người ta xúm lại xem đám ma Giuda không kèn không trống, ít người tham dự. Một vài người khiêng xác Giuda trên tấm ván thô sơ. Vợ y theo sau lẽo đẽo than khóc… Đám ma đi mất hút vào bóng đêm tăm tối.

Phá Lâm-bô
Theo phụng vụ của Hội Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh là ngày âm thầm lặng lẽ, không cử hành lễ nghi nào. Thời gian này tượng trưng cho những giờ phút Chúa nghỉ yên trong mồ. Lễ hội Tuần Thánh hôm nay kỷ niệm Chúa chịu “chết và táng Xác, xuồng ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại.” Sáng Thứ Bảy xưa dùng để các đoàn thể và các họ trong xứ thay nhau viếng hang đá. Họ tổ chức những cuộc rước nhỏ, đem nả và nến đến viếng mồ và hôn chân Chúa. Buổi chiều có tổ chức rước kiệu đi Đàng Thánh Giá trọng thể ngoài trời, để cùng với Đức Mẹ ôn lại chặng đường khổ nạn Chúa đã đi qua. Kiệu ngắm Đàng Thánh Giá rước tượng Đức Mẹ sầu bi đứng dưới chân Thánh Giá có vắt tấm khăn trắng, hai cái thang dùng tháo đanh bắc hai bên.
Sau khi ngắm 14 nơi Đàng Thánh Giá, kiệu vào nhà thờ để tiếp tục Ngắm Dấu Đanh, suy niệm về Năm Dấu Thánh Chúa, đã bị đanh sắt, lưỡi đòng gây thương tích. Nguời ngắm cũng được trống phách rước lên và lèo thưởng như Ngắm Đứng.
Xong Ngắm Dấu Đanh là chuẩn bị cho Thánh Lễ Vọng Phục Sinh. Trong Thánh Lễ, các bài Sách Thánh diễn tả những biến cố quan trọng từ ngày Sáng thế, nhất là biến cố Vượt qua trong Sách Xuất Hành để chuyển sang cuộc Vượt Qua của Chúa Cứu Thế từ cõi chết bước qua Phục Sinh vinh hiển. Chủ tế long trọng hát mở đầu Kinh Gloria Vinh Danh Thiên Chúa…Chuông nhà thờ, sau ba ngày im bặt, lại vang ngân âm điệu hân hoan mừng Chúa sống lại khải hoàn. Từ mồ thánh, người ta rước tượng Chúa Phục Sinh uy nghi lẫm liệt lên bàn thờ. Ngay sau khi kiệu Chúa Phục Sinh ra khỏi mồ, đám thanh niên trai tráng hò reo phá Lâm-bô.
Lâm-bô hay còn gọi là Ngục Tổ tông như trong ngắm thứ 14 đã gẫm: “khi Linh hồn Đức Chúa Giêsu ra khỏi Xác xuống Ngục Tổ tông cứu những linh hồn Các Thánh xưa ở đấy…” nói lên ý nghĩa “Đức Giêsu đã xuống chỗ sâu thẳm của cõi chết, để những người chết được nghe tiếng Con Thiên Chúa, và những ai nghe tiếng Ngài thì được sống” (Ga 5,25) “vì Tin Mừng cũng đã được loan báo cho những người đã chết” (1Pr 4,6). Phá Lâm-bô ở đây là đám trai tráng vui đùa dỡ bỏ hang đá nơi đã đặt tượng Xác Chúa. Việc làm đó có mục đích nhấn mạnh cho mọi người: ý nghĩa cao trọng của Mầu nhiệm Cứu Chuộc, Chúa Phục sinh đã chiến thắng sự chết, phá tan xiềng xích tội lỗi của Satan, mở ra cho nhân loại một sinh lộ, dẫn đến Vương quốc Tình Yêu Thiên Chúa.

Kiệu Mừng
Để kết thúc cho những ngày Lễ Hội Tuần Thánh, chiều Chúa Nhật Phục Sinh là cuộc rước Kiệu Mừng. Gọi chung là Kiệu Mừng, nhưng thật ra cuộc rước này có hai kiệu. Kiệu Tượng Chúa Phục Sinh, và kiệu Tượng Đức Mẹ. Hai kiệu xuất phát từ hai địa điểm khác nhau, cùng tiến về nhà thờ, để rồi hai đoàn kiệu gặp nhau tại cuối nhà thờ. Ở đó có cuộc “bái kiệu”. Bái kiệu là các người chân kiệu vai vẫn khiêng kiêu, nhưng nghe theo hiệu lệnh phải bái gối. Để nghi thức bái kiệu được nhịp nhàng, cung kính nên đã có sự tập dượt kỹ. Bên kiệu Đức Mẹ có bốn cô thiếu nữ được tuyển chọn có giọng ca tốt, học câu Đức Mẹ chào mừng Chúa theo cung Ngắm Lễ Mùa Mừng, các thiếu nữ này đứng trong gầm kiệu, cũng phải bái theo tám người chân kiệu. Bên kiệu Chúa Phục Sinh bốn anh thanh niên cũng được tập hát cung Evan câu Chúa đáp lại.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và Chúa Phục Sinh khi hai kiệu đứng đối diện nhau. Hiệu lệnh được ban ra, các đoàn thể đi kiệu dàn ra hai bên, cung chiêm cuộc bái kiệu. Kèn trống ngưng biểu diễn. Bầu khí trang nghiêm thinh lặng. Trống mèn chấp hiệu bên kiệu Đức Mẹ lên hiệu bắt đầu “bái kiệu”. Tám người khiêng kiệu và bốn thiếu nữ đều bái gối sao cho kiệu không rung, không nghiêng lệch. Khi kiệu đứng lên, tiếng chào bên kiệu Đức Mẹ được cất lên:
- “Mừng Con Tôi rầy đã được sống lại sáng láng vui vẻ vô cùng, i i i”
Kiệu Đức Mẹ bái Chúa ba lần, trịnh trọng và trang nghiêm. Đến bên kiệu Chúa Phục sinh bái đáp lễ một lần, tiếng chào đáp cũng được ngân lên:
- “Con mừng Mẹ cùng các Đầy tớ rầy được bình an, i i i”
Tiếng chào đáp vừa dứt, kèn trống lại nổi lên, hai đoàn rước nhập làm một tiến vào nhà thờ. Kiệu Chúa đi trước, kiệu Đức Mẹ theo sau. Khi các kiệu an vị hai bên cung thánh, là cuộc ngắm 5 sự Mừng của Kinh Mân côi, theo bản ngắm dài mà người ngắm đọc theo cung giọng Evan. Y phục của người lên ngắm là khăn đóng, áo thụng lam, họ cũng được rước lên bằng trống phách…

Giầu thêm văn hoá
Chúng tôi vừa trình bầy một số nét về cách diễn tả cuộc thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu, mà người Công Giáo Việt Nam trước đây đã cử hành theo tình cảm dân tộc, như một lễ hội. Chúng tôi chỉ viết theo những gì đã cảm nhận được từ thời thơ ấu mà năm nào cũng háo hức được đi xem. Mấy trang này chắc chắn không diễn tả hết được cái phong phú, cũng như ý nghĩa mà cha ông chúng ta muốn bày tỏ trong lễ hội. Chúng tôi ước mong sưu tầm được những tài liệu về đời sống đạo của người xưa, cũng như sự quan tâm góp ý của quý vị, để có thể viết được nhiều chi tiết về lễ hội này. Chúng tôi cũng đồng ý với nhiều người đã nhận ra đời sống đạo của người công giáo Việt Nam luôn thích ứng vào nét đẹp văn hoá và truyền thống dân tộc. Điều đó chứng tỏ rằng Đạo Công Giáo khi đến Việt Nam đã làm phong phú thêm cho nếp sống văn hoá Lạc Việt, chứ không phải người công giáo Việt Nam quên mất cội nguồn.
Dám mong một số nét tiêu biểu của Lễ Hội Tuần Thánh chúng tôi ghi lại trên, như một gợi ý cho các vị cao minh khai triển, đồng thời cũng giúp các bạn trẻ có một khái niệm về nếp sống đạo của cha ông chúng ta thuở trước.
 (Tuần Thánh 2008)
Hoàng Đức Trinh
 (Nguồn: Vietcatholic.com)







Có nên đeo tang trong ngày thứ Sáu tuần Thánh ?

Có 3 lý do được trình bày dưới đây khiến chúng ta phải loại bỏ việc đeo tang trong ngày thứ Sáu Thánh:
I. Thứ nhất: thứ Sáu thánh không phải là đám tang của Đức Giêsu
Theo văn hóa Việt Nam, tang phục là để thể hiện tình nghĩa, lòng thương xót giữa kẻ mất người còn, diễn tả sự thương tiếc người chết. Do đó, đồ tang phải dùng là vải trắng loại sô, loại xấu để lộ vẻ tiều tụy hay tỏ ý đau đớn. Khi đeo tang trong ngày thứ Sáu Thánh, các tín hữu đang thể hiện tinh thần này đối với Đức Giêsu. Sở dĩ một số giáo xứ đeo tang như vậy là vì họ vẫn muốn giữ tập tục đã có từ xưa theo ý định thích nghi và hội nhập văn hóa của các thừa sai Dòng Tên, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes, khi truyền giáo tại Việt Nam. Bấy giờ (thế kỷ XVII), trong Mùa Chay và Tuần Thánh, các thừa sai đã tổ chức nhiều hình thức sinh hoạt hấp dẫn khác nhau cho giáo dân tham dự như: i] Rước tiệc chiên vào thứ Năm Thánh; ii] Thứ Sáu Thánh thì có Rước kiệu bắt, Đọc đoạn, Ngắm đứng, Dâng hạt, Tháo đinh, Táng xác Chúa với việc các tín hữu mặc đồ trắng và đầu chít khăn tang; iii] Viếng hang đá, Hôn chân Chúa, Rước kiệu đi Đàng thánh giá trọng thể ngoài trời, Ngắm Dấu Đinh trong ngày thứ Bảy Thánh; iv] Chúa nhật Phục sinh thì có kiệu tượng Chúa Phục Sinh và Đức Mẹ…
Thực hành đeo tang và than khóc tại Việt Nam lúc đó xét là phù hợp vì cũng tương đồng với quan niệm về ngày thứ Sáu Thánh ở khắp nơi trong Hội Thánh. Các tín hữu thời bấy giờ đã gọi ngày này là ngày thương khóc, than vãn, thương tiếc và sầu buồn trước cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Bởi thế, trước Công đồng Vatican II, vào thứ Sáu Thánh, tư tế cũng như phó tế mặc phẩm phục đen như trong nghi lễ an táng.1
Nhưng nay, tinh thần của ngày thứ Sáu Thánh không còn sắc thái than vãn, u buồn và tang tóc nữa. Trước khi thay đổi lịch phụng vụ diễn ra năm 1969, Tam nhật được gọi là Tam nhật thánh chứ không phải Tam nhật vượt qua. Vượt qua hay Phục sinh chỉ quy chiếu vào Chúa nhật Phục sinh mà thôi. Năm 1956, thứ Sáu Thánh có cái tên là “Thứ Sáu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa”. Đến năm 1969, ngày này mang tên chính thức là “Thứ Sáu của cuộc thương khó Chúa”2 nhằm phản ánh nội dung phụng vụ là cử hành cuộc Thương khó của Đức Giêsu như được ghi trong Sách lễ của Đức Phaolô VI (1970). Người ta còn đề nghị thứ Sáu Thánh mang một cái tên mới là “Thứ Sáu Phục sinh” vì muốn nhấn mạnh rằng vinh quang phục sinh ẩn dấu trong thánh giá và đang được thể hiện trong chính ngày này. Chính thánh Irênê và Tertunianô đã từng nói về ngày này là ngày Vượt qua (Pasch) theo nghĩa là một vận hành dẫn đến sự sống (x. Ga 12,24).3
Thứ Sáu Thánh là ngày tưởng niệm cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu, nhưng đồng thời lại tưởng niệm và kính mừng sự sống vì không giống như bất kỳ cái chết nào khác trên trần gian, Đức Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết và Ngài là “Đấng Hằng Sống, đã chết, và nay sống đến muôn thuở muôn đời” (Kh 1,18).4 Đức Giêsu bị giết chết, tưởng rằng đó là một thất bại, nhưng lại là cuộc chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và tử thần. Cho nên, hệ quả là:
i] Trong thứ Sáu Thánh, chúng ta hân hoan trước chiến thắng của Đức Giêsu, vui mừng tham dự vào cuộc vinh thắng tình yêu của Ngài.5 Các bản văn phụng vụ và những bài hát để kính thờ thánh giá trong thứ Sáu Thánh đều quy chiếu về phục sinh và bày tỏ cho chúng ta khía cạnh vinh quang và hân hoan của ngày này.6
ii] Không nên tách rời cái chết của Đức Giêsu ra khỏi cuộc phục sinh của Ngài, nhưng luôn coi đó như một thể thống nhất của “mầu nhiệm vượt qua”. Tam nhật Vượt qua phải được coi là một cử hành kéo dài, tức cử hành biến cố phục sinh vĩ đại. Cuộc thương khó của Đức Giêsu chỉ là một phần trong Tam nhật Phục sinh mà điểm kết thúc không phải là cái chết nhưng là sự sống.
Về màu sắc phụng vụ, hôm nay Hội Thánh sử dụng màu đỏ thay cho màu đen. Đây là màu của máu và tử đạo nhằm nói lên rằng Đức Giêsu là vị tử đạo đầu tiên. Ngài đã thực sự chấp nhận cái chết và hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương nhân loại và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Màu đỏ cũng là màu của vương quyền như vẫn được thấy trong nghĩ lễ phong vương. Điều này muốn ám chỉ rằng Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó ngay từ Chúa nhật Lễ Lá trong tư cách của một vị Vua. Ngài đã được mọi người nhận ra và tung hô là Con vua Đavit và là Vua It-ra-en (x. Ga 12,13). Vinh quang vương quyền thực sự được chiếu tỏa ngay trong chính cái chết của Ngài và sẽ được mặc khải trọn vẹn vào ngày phục sinh.
Hơn nữa, mặc dù trong và sau cử hành phụng vụ thứ Sáu Thánh, bầu khí cộng đoàn trầm lắng và thinh lặng nhiều (nhà tạm để trống, không có Thánh Thể trong thánh đường, bàn thờ không phủ khăn, không nến và không thánh giá, vị chủ sự và giúp lễ thinh lặng phủ phục ngay từ đầu buổi cử hành…) nhưng hoàn toàn không phải mang sắc thái tang tóc. Trái lại, thứ Sáu Thánh hướng chúng ta tới những hồng ân của Chúa: Ngài đã cứu độ và giải thoát chúng ta. Như trong thời của thánh Augustino, các tín hữu khắp nơi đã gạt bỏ y phục tang tóc trong ngày này để mừng vui trong “chiến tích của thập giá”.

II. Thứ hai: thứ Sáu Thánh làm kiểu mẫu cho nghi lễ an táng chứ không thể ngược lại
Nguyên tắc là hình thức đạo đức phát xuất từ phụng vụ và dẫn đưa dân chúng đến với phụng vụ, vì tự bản chất, phụng vụ vượt xa các việc ấy.7 Phụng vụ thứ Sáu Thánh giải thích rõ ràng cho chúng ta bằng lời và hành động ý nghĩa căn bản cái chết của Đức Giêsu. Chúng ta không thể tách biệt cái chết này ra khỏi sự sống lại của Ngài.  Phụng vụ thứ Sáu Thánh chiếu soi suy nghĩ và xây dựng thái độ của chúng ta đối với cái chết,8 và là mô hình cho chúng ta trong vấn đề mục vụ khi “cử hành” cái chết của những người thân yêu trong nghi lễ an táng. Nói cách khác, tuy cử hành thứ Sáu Thánh không phải là đám tang của Đức Giêsu, nhưng lại mặc khải một cách sống động nhất những gì làm thành đám tang của người Kitô hữu. Tất cả những nghi lễ khác nhau trong cuốn Nghi thức An táng Kitô hữu hiện nay diễn tả đức tin này: mầu nhiệm Chúa Kitô chịu chết và phục sinh hàm chứa mầu nhiệm sự chết của con người và mầu nhiệm sự chết của con người gắn chặt với mầu nhiệm Chúa Kitô chiến thắng tử thần (x. Rm 6,3-5; 1Cr 15,51-57).

1. Nghi lễ an táng trước Công đồng Vatican II
Nếu ai đã từng tham dự nghi lễ an táng trước Công đồng Vatican II 9 thì sẽ nhìn cũng như cảm thấy một bầu khí ảm đạm và u buồn bao quanh đám tang: lễ phục đen, những bài thánh ca tang tóc và những kinh nguyện thảm thương. Còn bên ngoài phụng vụ, thêm vào cho bầu khí buồn thảm, bi thương của đám tang thường là những bài điếu văn dài lê thê và những chia sẻ thống thiết. Đây là hệ quả của một viễn tượng thần học quá nhấn mạnh đến lỗi lầm của con người và sự xét xử của Thiên Chúa hơn là sự thiện hảo nơi con người và lòng thương xót của Thiên Chúa; quá nhấn mạnh cái chết hy sinh của Chúa Kitô hơn là sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết; quá nhấn mạnh đến bản án phải chết đời đời hơn là gieo niềm hy vọng được cùng sống lại với Đức Kitô. Trong bầu khí như thế, tâm trí của người tham dự thường là sợ hãi. Họ dễ dàng cho rằng người chết thật khó vào Nước Trời. Nếu người quá cố có xứng đáng vào Thiên Quốc thì ít ra cũng phải chịu nhiều hình phạt đau đớn trong luyện ngục. Đương nhiên kẻ nào phạm tội trọng mà chưa kịp xưng thú thì sẽ bị kết án đời đời trong hỏa ngục. Cũng may, khía cạnh mừng vui và vượt qua như trong phụng vụ an táng thuộc thời kỳ đầu của Giáo Hội còn xuất hiện trong phần kết thúc của nghi thức.10

2. Nghi lễ an táng sau Công đồng Vatican II
So với phụng vụ an táng tiền Công đồng Vatican II, cuốn Nghi lễ an táng Kitô giáo (được ban hành bởi Thánh bộ Phụng tự Thánh ngày 15 tháng 8 năm 1969) cho thấy những điểm khác biệt như sau:
● Nhấn mạnh tính phục sinh của cái chết Kitô giáo. Do đó, khi một người tín hữu ly trần, Giáo Hội sẽ cử hành mầu nhiệm Thiên Chúa hằng sống, Ngài là Chúa của kẻ sống để những ai “an giấc trong Chúa” thì sẽ được cùng sống với Ngài (x. 1Tx 4,13-14). Trong nghi lễ an táng, Giáo Hội hân hoan trao một thành viên của mình cho cộng đoàn các thánh;11
● Có sự quân bình hơn khi nhìn nhận nỗi đau buồn của tang quyến và muốn đem lại niềm ủi an và hy vọng cho họ (x. Rm 12,15), trong khi nghi lễ an táng trước năm 1969 không có bất cứ lời nguyện nào dành cho người sống cũng như gia đình của người quá cố;12
● Nài xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và khiếm khuyết, công bố niềm tin và niềm hy vọng vào lòng thương xót của Chúa và chiến thắng của Chúa Kitô trên sự chết nhờ sự phục sinh của Ngài (trọng tâm của cử hành chính là mầu nhiệm vượt qua);13
● Thay thế lễ phục và trang trí màu đen bằng màu tím;14
● Không còn hát ca tiếp liên “Ngày thịnh nộ” (Dies Irae);15
● Có nhiều bài đọc Kinh Thánh để chọn công bố trong Thánh lễ an táng. Nội dung của những bản văn Kinh Thánh này ít nhấn mạnh đến tội lỗi, nhưng nói về lòng thương xót và sự ủi an của Thiên Chúa; Đức Kitô chiến thắng tử thần; vẻ đẹp của thiên đàng. Không còn cái nhìn bi quan, xa cách, khiếp sợ của Cựu Ước, nhưng chú trọng đến niềm hy vọng nơi Ðức Kitô.
● Những lời nguyện tuy có đề cập đến tội lỗi và thiếu sót của con người nhưng cũng không quên nhấn mạnh đến lòng xót thương của Thiên Chúa cho những ai thông dự vào Bí tích Thánh Thể…16

III. Thứ ba, hướng dẫn của Hội Thánh về lòng đạo đức bình dân
Dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II nói chung và của Hiến chế Phụng vụ Thánh nói riêng, chúng ta cần trân trọng, ưu ái, duy trì và khuyến khích những việc đạo đức bình dân như vừa nêu trên đây.17 Bởi vì chính lòng đạo đức bình dân cũng là một thực thi của Giáo Hội, do Chúa Thánh Thần khởi xướng và duy trì. Thêm nữa, lòng đạo đức bình dân có một cảm thức gần như bẩm sinh về thánh thiêng và siêu việt, là công cụ Chúa ban để gìn giữ đức tin của dân Chúa.18 Theo Hiến chế Phụng vụ Thánh:
Những việc đạo đức của dân Kitô giáo bao lâu còn được thích hợp với các lề luật và quy tắc của Giáo hội thì còn được khích lệ rất nhiều, nhất là khi thi hành theo chỉ thị của Tông tòa. Những việc thánh thiện của các Giáo hội địa phương cũng được đặc biệt tôn trọng, khi được thi hành theo các chỉ thị của giám mục, hợp với tập tục hoặc các sách đã được chính thức phê chuẩn. Nhưng phải chiếu theo các mùa phụng vụ để xếp đặt các việc ấy cho hòa hợp với phụng vụ thánh, để có thể được coi là phát xuất từ phụng vụ và để tiến dẫn dân chúng đến phụng vụ, vì tự bản chất, phụng vụ vượt xa các việc ấy. 19
Tuy nhiên, cũng cần phải canh tân và Tin Mừng hóa, cũng như định hướng và đôi khi sửa sai nếu việc đạo đức bình dân có các yếu tố không còn hài hòa với tinh thần phụng vụ mới, hạ giá trị phụng vụ hay gây tác hại cho phụng vụ của Giáo Hội.20

 IV. Thay lời kết 
Việc đầu đội tang trong ngày thứ Sáu Thánh thường đi kèm với các biểu hiện của lòng đạo đức bình dân như Ngắm đứng, Tháo đinh, Táng xác Đức Chúa Giêsu. Trong nghi thức này có một loại kinh nguyện gọi là “Đọc đoạn” và “Than mồ”. Nội dung và cung giọng của Đọc đoạn và Than mồ nhằm diễn tả sự đau thương của Chúa chịu chết vì nhân loại. Tất cả sự kiện này phản ánh các tín hữu đang tham dự “Đám tang của Đức Giêsu”.
Dựa vào hướng dẫn của Giáo hội, chúng ta nên giữ lại những việc đạo đức bình dân như Ngắm đứng, Tháo đinh, Táng xác Đức Chúa Giêsu… như tập tục từ bao lâu nay. Thế nhưng, căn cứ vào 3 lý do được trình bày ở trên, để hòa hợp với tinh thần và cử hành phụng vụ thứ Sáu Thánh hiện nay, chúng ta nên bỏ đi việc đội khăn tang; sửa lại nội dung các bài ngắm cho phù hợp với bản văn Kinh Thánh;21 xem xét lại cung giọng hay cung điệu quá đỗi thảm thương não nuột …Những  thay đổi này nhằm mục đích làm cho việc đạo đức bình dân quy chiếu nhiều hơn vào Kinh Thánh và phụng vụ. Tất nhiên, phải làm cách nào để không gây thiệt hại cho các tín hữu.22
Nguồn cgvdt.vn | Lm. Giuse PHẠM ĐÌNH ÁI, Dòng Thánh Thể