KỶ YẾU GIÁO XỨ THÁNH GIA
K1B
*1956 – 2019*
1. Sơ lược tiểu sử hình
thành Giáo Xứ:
Vào đầu năm
1956 chính phủ cho đào các kênh ở vùng đất Cái Sắn trong chương trình của Tổng
Uỷ Di Cư. Mục đích là để các gia đình Công Giáo gốc miền Bắc di cư vào được
định cư làm ăn sinh sống, nên các kinh miền Cái Sắn đã được giao cho các Linh
Mục di cư đảm trách. Kênh 1 là kênh được đào sớm nhất vào đầu năm 1956. Cũng
trong chương trình kênh 1 được chia làm 3 khu, mỗi khu 1 Nhà Thờ, mỗi Nhà Thờ
được chia làm 4 Làng.
Đầu năm
1956 khoảng hơn 200 gia đình miền Bắc di
cư vào Nam gốc ở Sơn Lãng – Hà Liễu – Lác
Môn – Kiên Chính – Thạch Bi – Thượng Phúc – Hà Lạn – Hà Quang – Quĩ Đê – Quĩ
Ngoại – Sa Đê. Theo Cha Cố GB Phạm Huy Diệu vào khu 3 K.1 mỗi gia đình được cấp
1 lô đất ngang 30 m dọc theo bờ kênh dài 1000m từ bờ kênh đi sâu vào. Các GĐ
cùng quê ở miền Bắc được nhận đất sát với nhau theo như Sơn Lãng Hà Liễu Lác
Môn được lập nên Làng Sơn Hà(Từ Sơn Lãng và Hà Liễu). Số dân Kiên Chính Thạch
Bi được lập lên Làng Kiên Chu (Kiên: Kiên Chính. Chu : Đại đa số thuộc gốc Bùi
Chu). Dân Thượng Phúc Hà Lạn Hà Quan được lập lên làng Thượng Môn, vì đa số là
dân Thượng Phúc di cư vào ở trại tạm cư Bùi Môn rồi mới về kênh Cái Sắn nên mới
lấy tên làng là Thượng Môn. Dân Quĩ Đê, Quĩ Ngoại, Sa Đê được lập lên làng Tân
Đê.
Các GĐ được
chính phủ cấp cây chàm và lá để làm nhà. Nhà thờ cũng vậy. Khoảng tháng Tư năm
1956 nhà thờ bằng cây chàm lợp lá chung quanh ghép lá với diện tích khoảng 6m x
14m. đã được dựng lên. Cha cố GB đã chỉ định cho Ô. Tổng Hy làm Chánh Trương.
Lúc này gọi là Nhà Thờ khu 3 kênh 1 quan thầy Thánh Gia Thất. GX coi như được
thành lập từ đây.
Được khoảng 3
năm trong làng Kiên Chu có 1 đám an táng. Tục lệ Kiên Chu và Thạch Bi có phần
khác nhau nên bất đồng ý kiến với nhau, khoảng 15 GĐ gốc Thạch Bi đã xin tách ra khỏi làng Kiên Chu đặt tên mới
là làng Tân Thạch. Đến cuối năm 1963 cha cố GB đã ổn định lại để 2 làng sát
nhập như cũ đổi tên mới là Làng Hiệp Hoà (Hiệp lại và hoà thuận với nhau). nhận QT cha cố GB là QT
Làng. Tên Làng Hiệp Hoà có từ đó tới nay.
Sau khi đào
kênh đòn giông ĐGM chia K.1 ra làm 2 GX, nên nhà thờ khu 2 được chia ra làm
hai. Hai làng Nguyên Thuỷ và Minh Tiến được sát nhập vào GX TG lập nên GH Kitô
Vua.
Nhà thờ được
xây dựng lại qua các thời kỳ : Khoảng năm 1959-1960 nhà thờ đã được làm lại
bằng gỗ dầu, mái tôn, chung quanh ghép gỗ. Với diện tích (8m x 24m). gác chuông
bằng gỗ cao khoảng 6m.
Đến đầu năm
1969 nhà thờ được xây dựng lại bằng bêtông cốt thép. Cửa ra vào, cửa sổ bằng
sắt. Kích thước 12m x 38m. Tháp chuông cao 16m.
Đức Cha Micae
đã thánh hiến Nhà Thờ vào dịp QT Thánh Gia năm 1970.
Cuối năm 2003
Nhà Thờ được khởi công xây dựng lại với kích thước 16m x 24m x 50m. ĐC Giuse đã
thánh hiến vào ngày 31/08/2007.
2. Các thời Cha Xứ :
Gx. Thánh Gia
được thành lập năm 1956 dưới thời ĐGM Phaolô Nguyễn Văn Bình GP Cần Thơ.
* Cha Xứ Tiên
Khởi : GB Phạm Huy Diệu từ 1956 – 1982. Hưu: 1982-1983 tại Giáo Xứ. Qua đời :
15/06/1983. An táng tại Giáo Xứ.
* Cha Xứ II :
Giuse Nguyễn Văn Tiếu từ năm 1982-1989. (Ngài 08-12-1977 ĐGM GB phong chứ phó tế cho Thầy
Giuse Nguyễn Văn Tiếu và bổ nhiệm về giáo xứ giú cha cố Gioan B. Ngày
15-10-1981: Thụ phong LM. Đầu tháng 03/1982. cha cố GB về hư trao quyền cho cha
Giuse Nguyễn Văn Tiếu. Tháng 05/1989 cha được bổ nhiệm về giáo xứ Tân Bùi
K.4a).
* Cha Xứ III : Giuse Đinh Hữu Huynh từ năm 1989
– 1995. (Tháng 05/1989 cha
được bổ nhiệm về giáo xứ Thánh Gia. Đến ngày 24-10-1995 ngài đã về nhà Cha và
an táng tại giáo xứ.)
* Cha Xứ IV : Giuse Bùi Đình Chư từ năm 1995 –
2010. (Ngày 08/12/1995 cha
được bổ nhiệm về giáo xứ đến 10/01/2010 ngài được chuyển đến GX Vinhsơn K.A2)
* Cha Xứ
V : Giuse Nguyễn Tiến Tâm từ năm 2010 – cho tới nay. (Ngày 12/01/2010 cha được bổ nhiệm về Giáo
Xứ)
3. Hội Đồng Mục Vụ qua
các qua các thời kỳ: (1956 – 2019)
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ CÁC KHÓA TỪ NĂM
1956—2019
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ: K1 - K15
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ KHÓA 16-17-18
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ KHÓA 19. 2019 - 20123
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét