Lc 9, 23-26
Thứ
sáu 31/07/2015 – Tinh thần đồng trách nhiệm.
Thánh
Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng. Lễ nhớ.
Bổn
mạng HĐMVGX / Giáo Phận Long Xuyên.
Bổn
mạng Liên đoàn TNTT / Giáo Phận Long Xuyên.
"Ai
mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".
* Thánh Phêrô Đoàn Công Quí
Ngài là con
của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Trường, sinh năm 1826, tại
họ đạo Búng, Thủ Dầu Một ( Bình Dương).
Ngay từ nhỏ,
cậu Phêrô đã có lòng ước ao dâng mình cho Chúa. Sau khi đã nhập vào Đại Chủng Viện
Thánh Giuse (Thị Nghè), Thầy Phêrô được gởi đi tu học tại đại chủng viện Thừa
Sai Paris ở Pénang (Malaysia), năm 1848; hoàn tất chương trình đào tạo, trở về
quê hương vào ngày 11/04/1855. Lúc bấy giờ các vua triều Nguyễn, nhất là vua Tự
Đức, đang cấm đạo rất gắt gao. Vào tháng 9 năm 1858, Thầy được chịu chức một
cách âm thầm tại Thủ Dầu Một; sau đó, được cử đi phục vụ tại các giáo xứ Lái
Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, làm Cha Phó họ đạo Cái Mơn (Vĩnh Long), và là Cha Sở
họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng, An Giang), từ ngày 27/12/1858, trú ngụ tại nhà
ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Cùng với lòng
nhiệt thành tông đồ, hăng hái phục vụ bổn đạo, Cha còn có lòng yêu mến Đức Mẹ
một cách đặc biệt. Nhờ có tài hát xướng, Cha đã sáng tác những bài thánh ca để
phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngoài ra, Cha luôn khao khát tử đạo để làm chứng
cho Chúa. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, khi có dịp là cha sẵn sàng dâng hiến
mạng sống, để làm chứng cho Chúa. Và Cha đã thực hiện được ý nguyện khi được Bề
Trên cử về Cù Lao Giêng làm Cha Sở.
Về nhiệm sở
mới được 10 ngày, Cha bị bắt cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 32 giáo
dân khác, vào ngày 07/01/1859 và bị giam giữ tại nhà tù Châu Đốc cho đến ngày
31/07/1859.
* Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng
Ngài sinh năm
1796, tại họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng), làng Tấn Đức, tổng An Bình, tỉnh An
Giang, thuộc Trấn Châu Đốc.
Là một gia
đình gương mẫu, cùng với vợ là bà Anna Của, ông đã nuôi dạy 9 người con và 2
người con nuôi nên những người đạo đức, tốt lành. Với lòng bác ái cao quý, ông
thường chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, túng thiếu,… nhất là trong thời
dịch bệnh và ngay cả khi bị giam tù ở Châu Đốc.
Với tinh thần
tông đồ cao, ông hăng say hy sinh, phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Trong thời
gian cấm đạo rất gắt gao, ông vẫn âm thầm dâng đất cất nhà thờ, chủng viện và
nhà các dì phước. Trong nhà ông, thường xuyên có các linh mục trú ngụ. Có thời
gian, có 5 linh mục cùng một lúc; trong đó có các vị thừa sai nước ngoài (Tây
dương đạo trưởng).
Ngoài ra, ông
còn có tài ngoại giao rất đặc biệt. Ông có mối quan hệ rất tốt với chính quyền
địa phương, cụ thể là Quan Huyện. Nhờ đó, mà giáo dân Cù Lao Giêng vẫn được an
bình trong thời điểm cấm đạo rất khó khăn.
Vì có người tố cáo, ngày 07 tháng 01 năm 1859,
Ông bị bắt cùng với cha Phêrô Đoàn Công Quí và 32 giáo dân khác. Các ngài bị
điệu về Châu Đốc giam giữ.
Gương sáng tử
đạo
Trong suốt 7
tháng trời, Tổng trấn và quan quân Triều đình ra sức dụ dỗ Cha Phêrô và ông
Emmanuel bỏ đạo, để được thăng quan, tiến chức và tưởng thưởng. Nhưng các ngài vẫn
một mực yêu mến Đức Kitô, nhiệt tình với Tin Mừng Phúc âm và trung thành với
Giáo Hội.
Không thuyết
phục được, Tổng Trấn gởi sớ về triều đình xin án lệnh. Vua Tự Đức châu phê và
gởi về Châu Đốc ngày 30/07/1859. Ngày hôm sau, 31/07/1859, tại Bến Chà Và (Bến
Cây Mét), các ngài đã hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng
Phúc âm.
Để tuyên dương
công trạng, nhân đức và tinh thần tông đồ đầy nhiệt huyết, vào ngày 02/05/1909,
Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong các ngài lên bậc Chân phước (Á thánh).
Sau đó, vào
ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên bậc Hiển
Thánh cùng với 115 vị tử đạo khác tại Việt Nam.
Các ngài đã
nêu gương sáng về Đức Tin kiên vững, Đức Mến nồng nàn, Đức Cậy vững vàng, nhất
là lòng nhiệt thành loan báo cho mọi người Tin Mừng tình yêu và ơn cứu độ của
Thiên Chúa.
Đây còn là mẫu
gương sống động về tinh thần đồng trách nhiệm giữa linh mục và giáo dân, giữa
Cha sở và Hội Đồng mục vụ giáo xứ mọi thời và mọi nơi.
Cũng còn
đúng với đường hướng xây dựng giáo phận theo mô hình của một Hội Thánh tham gia
và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Lời Chúa: Lc 9, 23-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng mọi người
rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo
Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất nó; còn ai mất mạng sống
mình vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian mà phải
thua thiệt và mất mạng sống mình, thì được ích gì? Bởi lẽ kẻ nào hổ thẹn vì Ta
và vì lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khi họ đến trước tôn nhan Ngài, tôn
nhan Chúa Cha và các Thiên Thần".
Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel
Lê Văn Phụng: chứng nhân đời thường của Đức Kitô
Lúc sinh thời,
thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giữ chức Lý trưởng, là chức thứ nhì trong làng. Vì
thế, ngài được gọi là ông Lý Phụng. Đồng thời, ngài coi sóc việc đạo cho cả phủ
nội tỉnh An Giang (Châu Đốc), gọi là Câu Phủ; cho nên, người đương thời cũng
quen gọi ngài là Ông Câu Phụng. Với những chức vụ đạo, đời khá quan trọng như
thế, ngài đã làm việc hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Cuộc đời của
thánh nhân có những nét đặc biệt sau đây.
Trước hết, là
một tín hữu ngoan đạo, ngài luôn luôn tỏ ra là một gia trưởng gương mẫu. Dù rất
bận chuyện làng-xã và họ đạo, thế nhưng, cùng với người vợ rất đảm đang là bà
Anna Của, ngài đã nỗ lực sinh dưỡng, dạy dỗ một cách tốt đẹp tất cả 9 người
con, năm trai, bốn gái, ngoài ra còn có hai người con nuôi cũng được ngài đùm
bọc, cưu mang, giáo dục đầy đủ. Ngài quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo lý, đạo
đức, học hành của con cái. Ngài lưu ý chỉ dạy cách ăn nết ở theo luân thường,
đạo lý từ ngàn xưa. Thật là gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Điều đó đã được các
linh mục lưu trú trong nhà khẳng định và ca ngợi.
Thứ đến, ngài
có một tinh thần tông đồ rất nhiệt thành, hăng hái. Với tư cách là người đứng
đầu trong họ đạo, ngài luôn luôn sống hết mình với Thiên Chúa, với Hội Thánh và
với bà con bổn đạo, ngài rất hăng say trong việc mở mang Nước Chúa, cho dù phải
gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách.
Trong thời
gian cấm đạo gắt gao nhất, ngài vẫn âm thầm dâng hiến đất đai, xây dựng nhà
thờ, nhà xứ và nhà các nữ tu. Mái ấm của ngài là nơi lưu trú thường xuyên của các linh mục, kể cả các vị
thừa sai nước ngoài.. sinh hoạt đạo đức của họ đạo, với các lễ nghi phụng vụ,
với các bí tích được trao ban đều đặn, hầu như luôn luôn được diễn biến bình
thường, là nhờ ở sự khôn khéo và tài đức của ngài.
Đồng thời, nhờ
lòng đạo đức sâu sắc và sự am hiểu giáo lý một cách vững vàng, ngài đã được Bề
trên chọn làm giảng viên giáo lý của họ đạo Cù Lao Giêng, và sau đó, của cả
tỉnh An Giang. Với vai trò đặc biệt này, ngài ra sức dạy giáo lý cho các thiếu
nhi, thanh niên và cả những người lớn tuổi. Ngài thường xuyên thăm hỏi, khuyên
nhủ, giải thích và giúp đỡ những người khô khan, nguội lạnh trở về với Chúa.
Ngài nhiệt tình lo lắng cho những người hấp hối, nguy tử được lãnh nhận các bí
tích sau cùng, chuẩn bị chu đáo trước khi ra trình diện với Chúa.
Ngoài ra, lòng
bác ái của ngài cũng là một nhân đức nổi trội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngài
vẫn tỏ ra tâm hồn nhân ái đặc biệt. Gặp thời
dịch bệnh hoành hành, ngài đã sắm ghe, mua thuốc, phân phát, cứu giúp
những người bệnh, cách riêng là những người nghèo khổ… trong thời gian tù đày,
ngài cũng sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho các bạn tù, cho lính canh và
cai tù… Ngay cả với kẻ thù, ngài cũng tỏ ra tấm lòng quảng đại, bao dung. Sở dĩ
ngài bị bắt và bị giam giữ, cùng với cha
sở Phêrô Quí là do hai tên bất lương tố cáo, hãm hại. thế nhưng, khi hai tên
này đến xin bà vợ của ngài giúp đỡ tiền bạc, từ trong tù, ngài đã khuyến khích
và yêu cầu bà thực hiện… Nhìn vào cung cách sống đó, tất cả mọi người đều thán
phục người tông đồ của Chúa.
Sau cùng, với
sự khôn khéo, tế nhị đặc biệt, với tinh thần trách nhiệm cao độ của người đứng
đầu với những phương tiện vật chất mà Chúa trao ban, ngài đã xây dựng được
những mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người chung quanh, kể cả quan quyền
lúc bấy giờ. Ngài sẵn sàng hy sinh, dâng hiến những gì mình có để làm sáng danh
Chúa, để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Nhờ đó, mà ngài đã giúp cho họ đạo
được bình yên, ngay cả trong thời buổi khó khăn nhất.
Và như thế,
với tình yêu son sắt với Chúa và anh em, với sự trung tín kiên vững của người
môn đệ, với niềm xác tín vào ơn cứu độ của thiên chúa, ngài đã hiến dâng mạng
sống, để xứng đáng là sứ giả của Chúa Kitô tại quê hương thân yêu của ngài.
Ngài đã trở nên một mẫu gương chứng nhân tiêu biểu của Đấng Cứu Thế cho đồng
bào của ngài.
Noi gương của
Thánh nhân, chúng ta hãy nỗ lực sống tin Mừng mỗi ngày trong cuộc sống đời
thường, một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Hãy sống trọn
vẹn ơn gọi mà Chúa trao ban trong gia đình. Hãy là những người cha có trách
nhiệm, người mẹ đảm đang, người con hiếu thảo để tạo bầu khí yêu thương, hạnh
phúc trong mái ấm. những lời nói, cử chỉ, việc làm thắm đượm tình bác ái sẽ
giúp đem lại bình an, niềm vui và hy vọng. Sự quan tâm, chăm sóc cho nhau sẽ
đan dệt nên những tâm tình yêu thương, liên đới, chia sẻ, hy sinh và phục vụ…
Nên nhớ rằng,
qua bí tích rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ
của Đức Ki-tô cho những anh em chung quanh. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta
có thể chu toàn sứ mạng đó bằng đời sống gương mẫu của chúng ta qua nhữn việc
làm cụ thể. Chính nhờ đời sống đầy tình yêu thương bác ái của chúng ta mà người
ta có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa, tin Chúa và đến với Chúa.
Ngoài ra, tinh
thần tông đồ cũng mời gọi chúng ta nhiệt tình cộng tác với Đức Giám Mục giáo
phận, với các linh mục phụ trách giáo xứ, với các thành phần dân Chúa, để giúp
mọi người thăng tiến về mọi mặt, nhất là trưởng thành trong đức tin, đức cậy và
đức mến. Hãy dùng tất cả những phương tiện mà Chúa trao ban, hãy biết chia sẻ
những gì mình có, như: tài năng, thời giờ, sức khỏe, công ăn việc làm, tiền của
vật chất… để làm vơi nhẹ những khổ đau, đem lại niềm an ủi, nâng đỡ tinh thần,
tạo nên sự phấn khởi, lạc quan… cho những người đang gặp khó khăn, thử thách.
Không ai nghèo túng đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người khác. Một nụ cười
tươi tắn, một sự đón tiếp niềm nở, một lời nói động viên hay một lời khen ngợi
chân thành, một cái bắt tay thân tình, một sự giúp đỡ nho nhỏ… tất cả đều có
một giá trị vô cùng lớn lao và cao quí. Tất cả đều là dấu chỉ chắc chắn loan
báo hạnh phúc đích thực, sung mãn và vĩnh viễn của Nước trời. Sống được như
thế, chúng ta sẽ là những chứng nhân đời thường của Đức Kitô, theo gương của
thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với ngài,
trong vinh quang Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét