NGẮM
15 SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU
NGẮM
DẤU ĐANH
DÂNG HẠT
THAN HANG ĐÁ
NGẮM ĐỨNG TRONG MÙA CHAY
Trong Mùa
Chay Thánh, các giáo xứ thường có nghi thức ngắm mười lăm sự thương khó Đức
Chúa Giêsu hay còn được gọi là Ngắm Đứng. Đó là những bài kinh nguyện được cha
Đắc Lộ soạn ra từ năm 1627. Các bài kinh này sau đó đã được soạn cho có cung
giọng trầm bổng, ngân nga như ca nhạc để người nghe dễ suy gẫm. Có nhiều giọng
Ngắm Đứng khác nhau (mặc dù bài văn chỉ là một) như: Giáo phận Bùi Chu, Thái
Bình một giọng ; Hà Nội, Phát Diệm, Hải Phòng một giọng ; Bắc Ninh một giọng ;
Nam Bộ một giọng … Những cung giọng này được truyền khẩu từ xưa tới nay và có
một quy luật nhất định, nhưng gần đây cung giọng này đã bị sai lệch làm giảm đi
phần nào những cảm xúc khi suy gẫm.
Nay sưu tầm
được cuốn “ DÂNG HẠT, ĐỌC ĐOẠN ĐÓNG ĐANH, THÁO ĐANH TÁNG XÁC ĐỨC GIÊSU” của
soạn giả Vũ Xuân Hoan phổ nhạc theo cung La thứ rất dễ để tập ngắm. Nhất là cho
các bạn nào đã từng tham gia Ca đoàn và biết sơ về căn bản nhạc lý.
Sách này phổ
nhạc theo cung giọng Giáo Phận Bùi Chu. Gồm có 15 ngắm sự thương khó Đức Giêsu
; Dâng Hạt ; phần Đọc đoạn cho nghi thức Đóng Đanh, Tháo Đanh, và táng xác Đức
Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Cũng theo
soạn giả, việc ngắm Đứng trong Tuần Thánh được tăng thêm phần long trọng bằng
cách gõ trống mèn khi ngắm (gõ nèo), giống như cầm trống chầu trong chèo cổ Bắc
Việt để thưởng cho những câu ngắm đúng quy cách hoặc tài khéo léo diễn tả của
người ngắm. Như vậy người gõ nèo gọi là cầm trịch (giống như trọng tài các môn
thể thao) phải là người có uy tín hiểu biết các quy cách của ngắm Đứng, thông
suốt các cung giọng, biết nhận xét từng câu để thưởng nèo cho đúng. Khi gõ một
tiếng “keng”, một tiếng trống “bung” và một tiếng trống “tùng” là một nèo. Gõ
hai lần liên tiếp là nèo đôi (ít gõ nèo ba). Quy cách thưởng nèo được ấn định
như sau: khi hết một đoạn hay một câu đã đủ nghĩa thì trong sách chữ Nho có
khuyên một dấu tròn để người ngắm ngân dài (í hi hì, ư hừ) thì gõ một nèo. Có
thể gõ hai nèo liên tiếp nếu gặp câu dài mà người ngắm không ngắt hơi và ngắm
hay. Sau dấu khuyên bắt sang câu khác thì phải đọc chữ “hì” để chuyển giọng. Cả
lúc đầu cất lên ngắm cũng vậy. Những câu dài từ mười sáu đến mười tám chữ tuy
không có dấu khuyên nhưng người ngắm đủ hơi đọc hết thì cũng thưởng một nèo. Những
câu ngắn tuy không có dấu khuyên nhưng là câu quan trọng nổi bật nhất trong
ngắm thì cũng thưởng một nèo như các câu :
Ngắm 1: “Vậy Đức Giêsu thương thiên
hạ.”; “Quỳ xuống rửa chân cho các đầy tớ cả”; “Đoạn Đức Giêsu lập phép Thánh
Thể cho thiên hạ”
Ngắm 2 : “Thì Đức Giêsu lo buồn sầu
não”
Ngắm 3 : “Này tôi đây”
Ngắm 4 : “Đức Giêsu thương mà giở mặt
ra xem ông Thánh Phêrô”
Ngắm 5 : “Một là Giêsu”
Ngắm 6 : “Cho nên nát hết thịt ra xem
thấy xương”
Ngắm 7 : “Tâu vua Giu-dêu”
Ngắm 8 : Hai câu đầu dài mà ý nghĩa quan trọng, nếu
không ngắt hơi thì thưởng nèo; “Này là người ấy”
Ngắm 9 : “Vác đi lâu ngã xuống đất”
Ngắm 10 : “Là vua Giu-dêu”; “khát nước”
Ngắm 12 : “đẹp lòng Đức Chúa Giêsu”
Ngắm 13 : “liền kêu cả tiếng rằng”;
“đội ơn Cha cả đã chịu chết vì con dữ là chúng tôi”
Ngắm 14 : “Người ấy là Con Đức Chúa
Trời thật”
Ngắm 15 : “Phải trái tim”; “Lòng Đức Mẹ
đau lắm”; “Vì Người thảm thiết thương con lắm”; “Xin cho chúng con nhớ đến
những sự thương khó Đức Chúa Giêsu xưa chịu chết vì tội thiên hạ”.
Tóm lại :
1.Thưởng nèo ở các câu có dấu khuyên
khi người ngắm ngâm đúng quy cách.
2. Những câu quan trọng trong mười lăm
ngắm nêu trên chỉ thưởng nèo khi người ngắm đọc hay và đủ hơi đọc hết câu dài.
Những câu không có dấu khuyên mà người ngắm ngân như có dấu khuyên thì
không gõ nèo.
3. Về Dâng Hạt: Thưởng nèo ở những câu
đọc đến tên cực trọng Đức Chúa Giêsu và Đức Mẹ, khi có bái lạy, cúi đầu, kết
hình Thánh Giá, triều thiên và những câu hết đoạn có ngân dài.
4. Sách của người cầm trịch và sách
trên bàn ngắm đều giống nhau.
Lời văn trong sách ngắm này có sửa đổi cho hợp với thể văn hiện đại và
đã được Đức Giám Mục
Giuse Vũ Duy Thống và linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy kiểm duyệt.
Rất tiếc vì thời gian có hạn nên Ca đoàn không kịp đánh máy Encore nên
đăng một vài ngắm làm mẫu. Nếu bạn nào yêu thích và có nhu cầu xin liên hệ số
ĐT 01685662100 anh Bính.
Rất mong được
quý tiền bối chỉ giáo thêm để sửa đổi cho hoàn chỉnh.
NGẮM MƯỜI LĂM SỰ THƯƠNG KHÓ
ĐỨC CHÚA GIÊSU
Ngắm mười lăm sự thương khó Đức Chúa Giêsu. Thương ôi Con Đức Chúa Trời ra
đời chịu trăm nghìn sự thương khó cho đến chết vì tội thiên hạ.
THỨ NHẤT:
Thứ Nhất thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đã đến ngày dọn mình chịu nạn mà chuộc tội cho thiên hạ, thì có thằng Giuđa là đầy tớ, Đức Chúa Giêsu đã nuôi nó nhiều năm, dạy dỗ những sự hiền lành. Ma quỷ giục lòng nó bán Đức Chúa Giêsu cho quân Giudêu ba mươi đồng bạc. Vậy Đức Chúa Giêsu thương thiên hạ toan liều mình chịu chết thì giã Đức Mẹ mà đi thành Giêrusalem là kẻ trợ nước Giuđêa. Song le trước khi chịu nạn thì đêm ấy, Đức Chúa Giêsu lấy nước mà quỳ xuống rửa chân cho các đầy tớ cả cùng rửa chân thằng Giuđa với, chẳng những nước không, cùng lấy nước mắt rửa chân nó nữa, vì thương tiếc linh hồn ấy rình mất. Đoạn Đức Chúa Giêsu truyền phép Thánh Thể cho thiên hạ mà nuôi lấy linh hồn loài người ta cho đến hết đời.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng đội
ơn Đức Chúa Giêsu đã truyền Phép Thịt Máu Mình cho chúng con. Lại xin xuống sức
giữ đạo cho trọn, chớ bắt chước thằng Giuđa bán Đức Chúa Giêsu làm vậy. Amen.
THỨ HAI:
Thứ Hai thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đêm ấy thấy tội thiên hạ cùng thằng
Giuđa phải sa hoả ngục cùng kẻ ngày sau theo nó thì Đức Chúa Giêsu lo buồn sầu
não liền vào một vườn làng ấy gọi là Giệtsimani, thì chọn ba đầy tớ đi cùng:
Một là ông thánh Phêrô, hai là ông thánh Giacôbê, ba là ông thánh Gioan. Thì
Đức Chúa Giêsu sấp mình xuống đất cầu cùng Đức Chúa Cha ba lần. Đang khi cầu
nguyện thì Đức Chúa Cha sai một Thiên thần yên ủi Đức Chúa Giêsu vào chịu nạn
cho cả và loài người ta được khỏi tội. Đoạn Đức Chúa Giêsu lo lắm, cho nên nhọc
cả và mình những mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu lo buồn vì chúng con. Xin dốc lòng chừa mọi tội làm cho
Đức Chúa Giêsu lo buồn làm vậy. Amen.
THỨ BA:
Thứ Ba thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đã biết thằng Giuđa cùng các quan dữ đã
đến gần thì Đức Chúa Giêsu ra rước nó. Bấy giờ thằng Giuđa giả chước đến hôn
mặt Đức Chúa Giêsu mà Người đã biết lòng nó độc thì nhịn mà chào nó. Đoạn liền
hỏi các quan dữ rằng: “Bay đi tìm ai”, nó thưa rằng: “Chúng ta đi tìm Giêsu
Nazaret”. Bấy giờ Đức Chúa Giêsu phán rằng: “Này Ta” nó liền ngã ra hết. Đoạn
Đức Chúa Giêsu cho nó đứng dậy mà lại hỏi như khi trước. Nó lại thưa như vậy
thì Người mới phó mình cho nó bắt. Khi ấy ông thánh Phêrô chém đứt tai một đầy
tớ Thầy Cả Giudêu mà Đức Chúa Giêsu quở ông thánh Phêrô cùng chữa tai thằng ấy
cho đã. Bấy giờ, quân dữ lấy lòi tói sắt cùng giây da mà buộc cổ và trói tay
Đức Chúa Giêsu cùng đấm miệng ba mươi lần mà lôi đi. Đêm ấy Người ngã xuống đất
bẩy lần mà quân dữ đạp dậy, có kẻ lấy lọng gươm mà thúc, có kẻ lấy đuốc khoa
trước mặt lại châm vào mình cho tắt đi. Sau nữa đến sông thì nó đi trên cầu mà
dòng dây bắt Đức Chúa Giêsu lội dưới sông lạnh lẽo giá rét.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu xưa chịu khó vì chúng con. Xin mở giây là tội buộc linh
hồn chúng con. Amen.
THỨ BỐN:
Thứ Bốn thị ngắm: Khi quân dữ nộp Đức Chúa Giêsu cho Annát là cha vợ Caipha
làm thầy cả Giudêu mà Đức Chúa Giêsu chịu nhiều sự khốn khó trong nhà ấy, đoạn
mới nộp cho Caipha. Bấy giờ, có một người các quan xỏ tay vào bao sắt mà vả
ngang mặt Đức Chúa Giêsu trước mặt thiên hạ. Thầy cả Giudêu nghe thấy Đức Chúa
Giêsu xưng ra mình là Con Đức Chúa Trời thì mắng rằng “ấy bay đã thấy nó nói
lời lỗi làm vậy còn tìm chứng nào làm chi nữa mà chẳng giết đi cho rồi”. Đêm ấy
quân dữ bắt trói cánh tay Đức Chúa Giêsu vào cột đá mà lấy khăn che mặt đoạn
nhổ cùng giật tóc và râu Đức Chúa Giêsu, lại lấy roi cùng bên dưới giầy đi mà
đánh ngang mặt, lại vả thâu đêm bốn trăm lần. Đêm ấy, có kẻ hỏi ông thánh Phêrô
rằng: “Mày phải đầy tớ Giêsu chăng”. Ông thánh Phêrô liền sợ mà chối ba lần
rằng: “Tôi chẳng biết người ấy là ai”. Đức Chúa Giêsu thương mà trở mặt ra xem
ông thánh Phêrô, bấy giờ người mới ăn năn tội ấy lắm, trở ra khóc lóc chẳng có
khi đừng. Trọn đời đến sớm mai gà gáy nhớ đến tội xưa liền khóc lóc.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu. Xin cho chúng con mạnh sức mà xưng đạo Đức Chúa Giêsu
ra, kẻo ngày nào chối chăng. Amen.
THỨ NĂM:
Thứ Năm thì ngắm: Khi quân dữ sớm mai nộp Đức Chúa Giêsu cho quan trấn thủ
tên là Philatô mà quan ấy xét chẳng thấy sự gì lỗi thì khiến tha nhưng mà quân
ấy kêu can chẳng cho thì Philatô phó Đức Chúa Giêsu cho mặc vua Hêrôđê xét. Mà
Hêrôđê hỏi mọi lẽ, song le Đức Chúa Giêsu chẳng thưa một điều, cho nên vua ấy
giận mà chê rằng: “Người này dại, nào biết gì mà nộp cho tao xét làm sao”, đoạn
khiến lấy áo trắng cho mặc rằng: “ Người dại thì mặc áo ấy mà đem về trả quan
Philatô”. Khi còn đi dọc đàng thì quân ấy đánh Đức Chúa Giêsu cùng làm những sự
xấu hổ. Philatô thấy Đức Chúa Giêsu thì thương. Vốn thói Giudêu đến ngày lễ cả
thường tha một người tù, cùng có đứa trộm cướp giết người tên là Baraba cầm
đấy, thì Philatô hỏi dân rằng: “Một là Giêsu, hai là Baraba, bay muốn tha ai”.
Bấy giờ, nó thưa lên rằng: “Tha Baraba, giết Giêsu mà chớ”.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu, xưa chịu xấu hổ vì chúng con. Xin cho chúng con được
lòng kính mến Đức Chúa Giêsu trên hết mọi sự, chớ bắt chước quân Giudêu yêu kẻ
gian dữ mà bỏ mặc mọi sự lành làm chi. Amen.
THỨ SÁU:
Thứ Sáu thì ngắm: Khi Philatô thấy dân chẳng chịu tha Đức Chúa Giêsu thì
phó cho một cơ quân là sáu trăm sáu mươi sáu người mà khiến đánh Đức Chúa Giêsu
cho đẹp lòng quân Giudêu. Bấy giờ, nó lột áo ra liền trói chân tay vào cột đá
lấy ngành gai giây da cùng lòi tói sắt, đánh cả và mình Đức Chúa Giêsu dư năm
nghìn đòn, cho nên nát hết thịt da xem thấy xương chẳng còn nơi đâu lành, mặt
mũi chẳng còn hình tượng người ta nữa. Song le, bấy nhiêu quân ấy chẳng có ai
thương Đức Chúa Giêsu sốt, nó đánh nhọc mỏi tay nhưng mà trong lòng Người còn
muốn chịu khó nữa vì tội thiên hạ.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu phải đòn như kẻ trộm cướp trước mặt thiên hạ. Xin cho
chúng con dốc lòng chừa tội, làm cho Đức Chúa Giêsu phải đòn làm vậy. Amen.
THỨ BẨY:
Thứ Bẩy thì ngắm: Khi quân dữ đã đánh Đức Chúa Giêsu đoạn, thì Người mặc áo
vào mà áo ấy dính máu nơi dấu đòn đánh, thì quân dữ lại giật áo đi cho nên máu
nơi dấu đòn đánh lại chảy ra theo. Nó liền khiến Đức Chúa Giêsu mặc một áo đỏ
đoạn lấy những gai khoanh tròn làm nén đóng vào đầu Đức Chúa Giêsu, bảy mươi
hai cái gai thì lọt vào óc, máu chảy xuống đầy mặt dòng dòng. Nó liền khiến
Người ngồi, đoạn quỳ xuống nhạo rằng: “Tâu vua Giudêu” cùng nhổ ngang mặt. Có đứa
lấy dùi mà vả trên gai lọt vào cho lắm, có kẻ thì vả ngang mặt cho nên máu
trong miệng chảy ra.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu là Chúa thật trời đất. Xin cho chúng con thờ phượng cùng
kính mến trên hết mọi sự, Amen.
THỨ TÁM:
Thứ Tám thì ngắm: Khi Philatô thấy các quan làm khốn Đức Chúa Giêsu quá lẽ
lắm thì thương, mà ngờ là dân xem thấy hình tượng khốn nạn làm vậy cũng thương
chăng thì Philatô đem Người lên nơi cao trước mặt thiên hạ mà rằng: “Này là
Người ấy”. Dân liền kêu lên rằng: “Đem đi, đem đi, đóng đanh nó vào cây thập
giá”. Philatô lại rằng: “Tao đóng đanh Vua bay làm sao”. Dân thưa rằng: “Chúng
tôi có một vua tên là Cêrarê mà chớ”. Bấy giờ, Philatô thấy mất công, hãi dân
cáo mình cùng vua chăng, thì phó Đức Chúa Giêsu cho dân đem đi giết.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu. Xin cho chúng con giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến
trọn đời, chớ bắt chước quân Giudêu, chẳng nhìn Đức Chúa Giêsu làm vậy. Amen.
THỨ CHÍN:
Thứ Chín thì ngắm: Khi quân Giudêu đóng cây Thánh Giá nặng lắm, mà nó khiến
Đức Chúa Giêsu vác đi thì Người yếu nhọc hết sức vác đi lâu ngã xuống đất mà
quân dữ chẳng thương, lại đạp dậy giục đi cho chóng. Sau nữa, nó sợ Người chết
dọc đường chẳng đến nơi chăng, thì nó mượn một người đi đàng vác đỡ. Khi ấy, cả
và thiên hạ theo mà xem. Song le, những người mến Đức Chúa Giêsu thì thương
khóc lóc mà Người trở mặt lại rằng: “Ở con thành Giêrusalem, chớ khóc thương ta
làm chi, một khóc thương bay cùng con cháu bay ngày sau phải khốn mà chớ”. Đang
khi Người còn vác Thánh Giá đi thì có một bà tên là Veronica, thấy mặt mũi Đức
Chúa Giêsu những máu chảy ra, thì bà ấy trao khăn cho Người lọt mặt đi hết hình
tượng Người in vào trong khăn ấy, rầy hãy còn ở thành Rôma.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu vác Thánh Giá nặng vì tội chúng con. Xin cho chúng con
được lòng ghét tội kẻo làm khốn cho Đức Chúa Giêsu làm vậy. Amen.
THỨ MƯỜI:
Thứ Mười thì ngắm: Khi quân dữ đem Đức Chúa Giêsu lên núi tên là Calavariô,
là nơi những sọ kẻ phải giết vì có tội lỗi mà quân ấy khiến Đức Chúa Giêsu uống
rượu với của đắng, đoạn nó lột áo ra, những máu nơi dấu đòn đánh lại chảy ra
theo. Bấy giờ, nó bắt Đức Chúa Giêsu nằm ngửa trên Thánh Giá, liền lấy búa đóng
đanh tay tả. Tay hữu thì nó buộc kéo hết sức,
liền giãn xương ngực ra cho nên Đức Chúa Giêsu đau lắm. Đoạn nó lại kéo hai
chân xuống cho đến lỗ nó làm đã sẵn mà đóng đanh vào. Bấy giờ, các quan lấy một
ván viết chữ vào rằng: “Giêsu Nararét là Vua Giudêu”. Đoạn đóng ván ấy vào
Thánh Giá. Ý quan viết chữ ấy cho xấu hổ, song le ý Đức Chứa Trời khiến viết
chữ ấy cho thiên hạ biết Đức Chúa Giêsu dù mà chịu hèn hạ làm vậy thì cũng là
Vua thật Giudêu cùng khắp mọi nước. Đoạn nó đào lỗ dựng Thánh Giá lên, khi ấy
dấu hai tay Đức Chúa Giêsu bởi xác nặng thì xếch ra, máu chảy xuống đất dòng
dòng. Bấy giờ bốn người các quan lấy áo ngoài Đức Chúa Giêsu cắt chia ra là bốn
phần, còn áo trong thì để vậy mà bắt thăm ai được thì lấy hết. Đoạn, những Sãi
cùng các quan cả và thiên hạ nhạo cười làm cho xấu hổ mà Đức Chúa Giêsu nguyện
rằng: “Con xin Đức Chúa Cha tha tội cho nó vì lầm chẳng biết”.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu chịu đóng đanh vì cả và loài người ta. Xin dâng mình
chúng con cho Đức Chúa Giêsu vì đã lấy hết máu mình ra mà chuộc tội cho thiên
hạ. Amen.
THỨ MƯỜI MỘT:
Thứ Mười Một thì ngắm: Khi quân dữ đóng đanh Đức Chúa Giêsu, cùng đóng đanh
hai người trộm cướp hai bên. Mà đứa bên tả mắng Đức Chúa Giêsu rằng: “Phải con
Đức Chúa Trời sao chẳng chữa mình cùng chữa ta nữa”. Bấy giờ, người bên hữu
mắng nó rằng: “Ta là kẻ có tội đáng sa hoả ngục chịu đóng đanh thì thật phải.
Nào Người có tội lỗi gì mà chịu làm vậy, sao mày trách người làm chi”. Đoạn xin
cùng Đức Chúa Giêsu rằng “Lạy Chúa tôi, khi nào lên nước trên trời nhó đến tôi
cùng”. Bấy giờ, Đức Chúa Giêsu trở mặt lại cùng người ấy mà phán rằng: “Thật
hôm nay Ta cho mà ở nơi vui vẻ cùng Ta”. Sau nữa, Rất thánh Đức Mẹ mắng tiếng
đã mang con đi giết, thì Người đi theo dọc đàng thấy máu con rơi. Mà đến nơi
Đức Chúa Giêsu chịu nạn. Khi các quan đóng đanh Người thì cũng như đóng đanh
trong lòng Đức Mẹ với, vì người yêu con trên hết mọi sự. Vậy, Đức Chúa Giêsu
thấy Đức Mẹ đứng gần ông thánh Gioan thì thương mà phán rằng: “Ở bà kia, ấy
Gioan là con bà”. Lại phán cùng ông thánh Gioan rằng: “bà ấy là Mẹ mày”. Đức Mẹ
nghe làm vậy thì lo buồn lắm vì đã biết thật một ít nữa Con chẳng còn ở cùng Mẹ
nữa. Khi ấy là giờ ngọ, mà cả và trời đất liền tối tăm mù mịt. Mặt trời xem
chẳng đáng. Chúa sinh nên muôn vật chịu nạn cùng chịu xấu hổ dường ấy.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu cùng Đức Mẹ. Xin cho chúng con được làm con rất thánh Đức
Bà như ông thánh Gioan thuở xưa. Amen.
THỨ MƯỜI HAI:
Thứ Mười Hai thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu một giờ rưỡi ở trên Thánh Giá, mà
ở lặng cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha thầm thĩ. Đoạn Đức Chúa Giêsu than thở cả
tiếng rằng: “Đức Chúa Cha để Con chịu một mình làm sao”. Ý Người nói làm vậy
cho thiên hạ biết Đức Chúa Giêsu chịu thương khó hết lòng hết sức vì chúng con.
Đoạn Đức Chúa Giêsu mất máu thì kêu rằng: “Khát nước”. Quân dữ liền lấy dấm đưa
lên cho uống. Bấy giờ, Người phán rằng: “Đã đoạn, ấy là hết việc chuộc tội
thiên hạ”.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng
thương Đức Chúa Giêsu. Xin cho chúng con đẹp lòng Đức Chúa Giêsu liên, chớ bắt
chước quân Giudêu lấy của chua cho uống, ấy là chớ làm tội lỗi mất lòng Đức
Chúa Giêsu nữa. Amen.
THỨ MƯỜI BA:
Thứ Mười Ba thì ngắm: Khi Đức Chúa Giêsu đã chảy hết máu mình ra, con mắt
thì lõm vào, mặt mũi thì xanh xao, liền kêu cả tiếng rằng: “Con phó linh hồn ở
tay Đức Chúa Cha”. Đoạn thì gục đầu xuống bên Đức Mẹ đứng như giã Đức Mẹ vậy mà
linh hồn cực trọng ấy ra khỏi xác liền sinh thì. Bấy giờ, cả và thiên hạ liền
động, núi non là đá vỡ ra, màn trong nhà thờ xé ra làm hai, mồ kẻ chết bỗng
chốc liền mở ra mà trời đất thì u ám như thương Đức Chúa Giêsu đã chịu chết vì
tội thiên hạ.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng đội
ơn Cha cả đã chịu chết vì con dữ là chúng con. Xin dốc lòng chừa mọi tội làm
cho Đức Chúa Giêsu chịu chết làm vậy. Amen.
THỨ MƯỜI BỐN:
Thứ Mười Bốn thì ngắm: Khi linh hồn Đức Chúa Giêsu ra khỏi xác, xuống ngục
Tổ Tông cứu những linh hồn các thánh xưa ở đấy đợi trông Đức Chúa Giêsu xuống
thế chuộc tội cho thiên hạ. Bấy giờ, quan tướng cùng nhiều người các quan thấy
những phép lạ làm vậy, thì xưng ra rằng: “Người này là Con Đức Chúa Trời thật”.
Liền đấm ngực ăn năn vì đã phạm tội cực trọng ấy.
Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng.
Xin Đức Chúa Giêsu thương chúng con còn ở dưới thế. Trông ngày sau thấy mặt cực
tốt cực lành như các thánh ở ngục Tổ Tông xưa. Amen.
THỨ MƯỜI LĂM:
Thứ Mười Lăm thì ngắm: Khi xác Đức Chúa Giêsu còn trên Thánh Giá thì có một
người các quan lấy đòng mà đâm cạnh nương long Đức Chúa Giêsu phải trái tim.
Bấy giờ, máu cùng nước chảy ra. Song le, khi ấy xác Đức Chúa Giêsu chẳng có đau
vì đã sinh thì. Nhưng mà lòng Đức Mẹ đau lắm như đâm trong lòng vậy, vì nó
chẳng thương khi còn sống cũng chẳng thương khi đã sinh thì. Đoạn hai người là
đầy tớ Đức Chúa Giêsu, một là Giuse, hai là Nicôđêmô, cất xác xuống mà phó ở
tay Đức Mẹ khóc lóc thương Con chẳng có khi đừng. Đoạn, tắm xác Đức Chúa Giêsu
mà táng trong hang đá, cũng như cất xác Đức Mẹ với. Vì Người thảm thiết thương
Con lắm khi cất xác Con thì như cắt ruột Mẹ ra vậy.
Khi ngắm bấy nhiêu sự,
thì nguyện một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng thương Đức Chúa Giêsu để cho
người ta cất xác xuống đất. Xin cho chúng con nhớ đến những sự thương khó Đức
Chúa Giêsu xưa chịu vì tội thiên hạ mà tích trong lòng chúng con cho đến trọn
đời. Amen./.
CHÚNG CON DÂNG 15 SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU CHO ĐỨC BÀ:
Lạy ơn Rất Thánh Đức
Bà Maria, lòng rộng rãi cực nhân cực thương, xưa thấy Con là Đức Chúa Giêsu,
Giuđa bắt nộp cho quân Giudêu, thì lòng Đức Bà đau đớn, như phải dao sắc thâu
qua lòng vậy. Lại thấy Đức Chúa Giêsu chịu đòn đánh nát hết cả và mình, chịu
đội mạo gai, vác Thánh Giá nặng, chịu đóng đanh mình trên cây Thánh Giá, chịu
chết vì tội thiên hạ, thì lòng Đức Bà cùng cả và mình, lo buồn sầu não khóc
lóc, như phải đóng đanh mình trên cây Thánh Giá vậy. Chúng con là kẻ rất hèn
mọn, đã nguyện và ngắm mười lăm sự thương khó Đức Chúa Giêsu, thì dâng cho Đức
Bà, như cây hoa đỏ Máu Thánh Đức Chúa Giêsu nhuộm, làm cho thơm tho loài người
ta. Vì vậy chúng con cậy vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu cùng xin Đức Bà cầu cùng
Đức Chúa Giêsu, cho chúng con được mạnh sức trong linh hồn, cùng biết nguyện
ngắm, và mến những sự thương khó Đức Chúa Giêsu, cùng ở khiêm nhường, bằng
lòng chịu những sự khốn nạn xấu hổ, cùng sự âu lo, lo buồn thế gian mà hằng giữ
việc lành phúc đức, cho đến giờ qua khỏi đời này, được giữ một lòng kính mến
Đức Chúa Trời, cho được ơn Đức Chúa Giêsu. Amen.
NĂM DẤU THÁNH ĐỨC CHÚA GIÊSU
30 KINH LẠY CHA, VÀ 5 KINH KÍNH MỪNG
CHIA RA LÀM SÁU PHẦN
THỨ NHẤT THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt chân tả Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà đóng đanh bằng mũi
đau lắm, máu chảy ra ròng ròng.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; Lạy ơn Đức Chúa Giêsu chịu đóng
đanh chân tả vì chúng con bởi đi đàng trái. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng;
thương Đức Mẹ đau đớn trong lòng, như phải đóng đanh vậy. Xin cho chúng con
chừa đi đàng trái, ấy là chớ làm tội lỗi nữa. Amen.
THỨ HAI THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt chân hữu Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà đóng đanh nơi có
gân cùng mạch máu nhiều, cho nên cả và mình Đức Chúa Giêsu phải khốn.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; đội ơn Đức Chúa Giêsu xưa ở thế
gian 33 năm, mỏi chân đi dạy dỗ chúng con, mà chúng con lại lấy đanh đóng chân
cho. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng; thương Đức Mẹ phải khốn cùng Con; Xin cho
chúng con hằng đi đàng ngay thật, là đẹp lòng Đức Chúa Trời liên. Amen.
THỨ BA THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt tay tả Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà lấy đanh sắt đóng
vào đau lắm, bởi cả và mình Đức Chúa Giêsu nặng thì lỗ tay liền xếch ra, càng
thêm đau đớn hơn nữa.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; đội ơn Cha Cả chẳng tiếc mình vì
con dữ là chúng con. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng; thương Đức Mẹ phải đau đớn
vì Con, Xin cho chúng con chừa sự chẳng nên, cho ngày sau khỏi bên tả Đức Chúa
Giêsu là bên kẻ phải xa hoả ngục. Amen.
THỨ BỐN THÌ NGẮM:
Khi quân dữ bắt tay hữu Đức Chúa Giêsu vào Thánh Giá, mà bởi chẳng đến lỗ
nó làm đã sẵn, thì nó buộc cổ tay kéo ra cho đến nơi, liền giãn xương ngực ra,
cho nên đau đớn lắm thì mới đóng đanh vào.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; thương Đức Chúa Giêsu lấy tay làm
những sự lành cho thiên hạ, mà người ta lại trả công cho làm vậy. Cùng nguyện 1
kinh Kính Mừng; thương Đức Mẹ bởi yêu Con hơn mình thì thảm thiết lắm. Xin cho
chúng con làm sự phúc đức, cho ngày sau được ở bên hữu Đức Chúa Giêsu, là bên
kẻ đáng lên thiên đàng. Amen.
THỨ NĂM THÌ NGẮM:
Khi Đức Chúa Giêsu đã sinh thì, bấy giờ có một người các quan lấy đòng mà
đâm cạnh nương long Đức Chúa Giêsu, phải trái tim, máu cùng nước chảy ra: bởi
Người đã sinh thì, thì lòng Đức Mẹ đau đớn lắm, như phải dao sắc thâu qua Trái
Tim vậy.
Khi ngắm sự ấy thì nguyện 5 kinh Lạy Cha; đội ơn Đức Chúa Giêsu đã lấy hết
máu trong trái tim đổ ra cho chúng con. Cùng nguyện 1 kinh Kính Mừng: thương
Đức Mẹ như phải dao sắc thâu qua trong lòng. Xin cho chúng con chớ yêu sự thế
gian, mà bỏ nghĩa Đức Chúa Giêsu, yêu dấu chúng con, cho nên chịu chết làm vậy.
Amen.
THỨ SÁU THÌ NGUYỆN: 3 KINH LẠY CHA,
Kính lạy đanh sắc thâu qua chân tay Đức Chúa Giêsu.
Lại nguyện 1 kinh Lạy Cha.
Kính lạy lưỡi đòng thâu qua cạnh nương long Đức Chúa Giêsu.
Lại nguyện 1 kinh Lạy Cha.
Kính lạy Thánh Giá, là giường Cha cả muôn vật nằm khi sinh thì. Xin Đức
Chúa Giêsu lấy Thánh Giá, đanh sắc, lưỡi đòng, như chìa khóa mở cửa thiên đàng
cho chúng con được vào. Amen.
DÂNG HẠT
Lạy ơn Đức Chúa Giêsu cùng rất thánh Đức Bà; chúng con dâng bấy nhiêu kinh
nguyện này, nhớ đến những sự thương khó Cha Cả đã chịu chết vì chúng con.
Chớ gì chúng con có ngày nào được chịu sự gì khó, vì Đức Chúa Giêsu làm
chứng, có lòng kính mến Cha cả trên hết mọi sự. Song le chúng con là kẻ yếu
sức, cậy trông rất thánh Đức Bà thêm sức cho chúng con, được giữ đạo cho trọn,
cùng xưng tên Đức Chúa Giêsu ra trước mặt thiên hạ. Amen.
THAN HANG ĐÁ I
Hĩ ôi, trong lúc bấy
giờ,
Thì lòng Đức Mẹ xót
như muối dầu.
Tuyết sương giá rét
lạnh lùng,
Mà Mẹ đứng ở bên
ngoài mồ con.
Mạch sầu sóng sánh
hai hàng.
Lệ chan sầu thảm mọi
đàng khốn thay.
Con ơi, Con hỡi có
hay,
Mẹ còn dương thế Con
nay vội về.
Con xưa đi khắp miền
quê,
Khuyên răn người thế
ăn năn đền bồi.
Con xưa chữa kẻ què
chân,
Cùng người câm điếc,
chết ra khỏi mồ.
Chúa Cha yêu dấu
trần gian,
Cho nên chẳng tiếc
Con Mình đền thay.
Con tôi chẳng những là Con,
Là Thầy an ủi sự
lành của tôi.
Khi xưa Mẹ lọt mồ
hôi,
Cho Con những lúc
đàng xa trở về.
Chẳng còn cùng Mẹ
ngồi kề,
Cùng ăn, cùng nói
mọi bề ủi an.
Con tôi nay đã nghỉ
yên,
Mà Con để Mẹ mồ côi
một mình.
Chớ gì Mẹ cũng hy
sinh,
Cùng Con một thể để
lòng an tâm.
Chân tay con phải
đanh thâu,
Mạo gai thâu suốt
trên đầu Con ơi.
Mặt Con xưa sáng hơn
gương,
Mà rầy lai láng máu
hồng tràn lan.
Thân Con lại phải
giáo đâm,
Lòng Mẹ đâu thể yên
lòng được chăng?
Nhân sao Con ở lặng
yên,
Chẳng nói, chẳng dối
của gì, Con ơi.
Bây giờ Mẹ muốn của
riêng,
Thì xin đanh sắt,
lưỡi đòng, mạo gai.
Của này Mẹ giữ làm
ghi,
Như là của trọng
trong lòng Mẹ nay.
Xưa kia hang đá
Bê-lem,
Sánh cùng Núi So
ngày rầy cách xa.
Xác Thầy đầy tớ táng
trong,
Huyệt sâu ngoài chắn
một hòn đá to.
Làm cho Đức Mẹ cho
vo,
Một mình sầu thảm trở về, hĩ ôi !
Lá vàng còn ở trên
cây,
Tuyết sương đã hết,
ngày rầy héo hon.
Thiên thần xưa đã
khen tôi,
Rằng Bà có phúc mà
rầy thấy đâu.
Thiên Chúa xưa ở
cùng Bà,
Mà rầy Thiên Chúa
chẳng còn cùng tôi.
Hợp như lời nói tiên
tri,
Mê-ông linh cảm
tuyên ca những lời.
Lại nthêm nhắn nhủ
lòng ghi,
Rồi đây dao sắc đâm
trong lòng Bà.
Bấy lâu năm ấy chẳng
yên,
Ngày nay đã hợp ứng
lời tiên tri.
Cúi đầu lạy Chúa
Thiên cung,
Thương tha tội lỗi,
trần gian tràn đầy.
Lại xin Đức Mẹ khoan
dung,
Dủ lòng thương xót,
chúng con mọn này.
Đời này còn ở trần
gian,
Hết lòng sám hối
ăn năn tội tình.
Vững lòng thờ Chúa
cho nên,
Khi hồn lìa xác được
lên nthiên đàng.
Chầu bên tòa Mẹ vẻ
vang,
Hát mừng Thiên Chúa
đời đời. Amen.
THAN HANG ĐÁ II
Vậy con suy lúc bấy
giờ,
Thật thì Đức Mẹ xót
như muối lòng.
Non đông giá rét
lạnh lùng,
Xác con đang ẵm
trong lòng khóc than.
Mạch sầu sóng sánh
đôi hàng,
Nhỏ sa liền giọt
chứa chan đã đầy.
Mặt trời hầu lặn về
tây,
Gio-an truyền gửi
giãi bầy nhỏ to :
Nếu chẳng cất xác
bây giờ,
Lỡ tối chẳng kịp Mẹ
lo thế nào ?
Dù lòng Đức Mẹ khát
khao,
Am xác con mãi chẳng bao giờ rời.
Thương con nước mắt chẳng ngơi,
Dường bằng biển đục
quê khơi lờ mờ.
Song le Đức Mẹ bây
giờ,
Cũng cho đầy tớ cất
đưa táng Thầy.
Gio-an ẵm lấy xác
Thầy,
Tắm lau các dấu máu
dây khắp mình.
Đôi hàng nước mắt
rinh rinh,
Đượm nhuần trên xác
Thánh Linh chứa dàn.
Tắm xong mới lượm
vào quan,
Đoạn đem đi táng
trong hang đá dầy.
Bây giờ Đức Mẹ khoan
thay,
Theo sau lẽo đẽo
đắng cay không ngần.
Đôi hàng nước mắt
theo chân,
Bước đi một bước
ngàn lần nhỏ sa.
Đường đi nước mắt
chan hòa,
Tắm luyện sẽ được
đất đa tận này.
Thương ôi nhiều nỗi
đắng cay,
Trời cao đất rộng
phen này thảm đau.
Vì thương Cha Cả cực
mầu,
Xác nằm hang đá âu
sầu héo hon.
Khi còn kêu tiếng
véo von,
Mặt chau, mày ủ
thương Con Chúa Trời.
Tận thú cũng thảm
bùi ngùi,
Chập chùng chân bước
hình hài thiết tha.
Nước khe ranh rách
chảy ra,
Dường như lâm khốc
thương Cha cực lành.
Biển như sóng lượn gập ghềnh,
Nước cuốn nước đổ
như hình nước thương.
Non cao ngây ngất
một dường,
Đầu nghiêng mình rũ
thảm thương chất đầy.
Gió kia cũng thảm
thiết thay,
Hiu hiu ngọn cỏ gió
bay phập phờ.
Dường bằng gió xé
xác xơ,
Vì thương Chúa trọng
là Vua mọi loài.
Chớ gì tôi tớ mọn
này,
Học đòi thơm thảo
ngày đầy khóc thương.
Vì Cha cực trọng là
giường,
Bây giờ phải chịu
thảm thương nghìn trùng.
Thương ôi Mẹ Chúa Thiên
Cung,
Bây giờ vò vọ chong
vong một mình.
Xác còn nằm chốn hôi
tanh,
Quân quan canh trực
chung quanh chẳng rời.
Sầu tuôn rằng rặc xa
khơi,
Đau lòng Đức Mẹ
chẳng ngơi phút nào.
Con xin khóc lóc âu
sầu,
Khóc vì lỗi phạm
trước sau vô vàn.
Khóc vì Cha táng trong
hang,
Khóc vì bảy sự Mẹ
mang trong lòng.
Khóc thương Chúa
trọng vô cùng,
Khóc thương Chúa
táng ở trong hang này.
Khóc thương Đưc Mẹ
khoan thay,
Cho con được táng
hang này cùng Cha.
Thương ôi con lậy
Đức Bà,
Vì thương Con Trọng
đứt đa tâm tình.
Ở ngày dao đá cắt
mình,
Chua xót lòng Mẹ như
hình thảm thương.
Ở ngày dãi gió tắm
sương,
Làm cho Mẹ phải ẩn
nương lạnh lùng.
Ở ngày ngọc thấy tay
không,
Thân Mẹ khắc khoải
chong vong giữa đồng.
Ở ngày trời chuyển
đất dùng,
Thấy Con vác nặng
não nùng tâm can.
Ở giờ đanh sắt máu
dàn,
Làm cho mắt Mẹ chứa
chan giọt sầu.
Ở ngoài da vóc ủ
mầu,
Làm cho ruột Mẹ tâm
toan não nùng.
Ai xui gió thảm đùng
đùng,
Ai xui biển lặng
sóng dùng từng cơn.
Ai xui tảo mộc tứ
phương,
Ủ ê lá bạc héo hon
ngành vàng.
Thảm thương lòng Mẹ
mọi đàng,
Con ơi, Mẹ biết tựa
nương chốn nào.
Con ơi, lòng Mẹ khát
khao,
Chớ gì xác Mẹ táng
vào mộ Con.
Chớ gì giờ chết giục
giồn,
Kẻo đau lòng Mẹ héo
hon nhiều chiều.
Con Tôi xưa nói
nhiều điều,
Bây giờ nằm lặng một
chiều, Con ơi.
Con ôi, sao chẳng
thương tôi,
Chong vong non quạnh
mồ côi một mình.
Con ơi, Con có thấu
tình,
Từ bi an bảo phân
minh đến rầy.
Bấy lâu Mẹ thảm
thiết thay,
Bây giờ Mẹ lại đắng
cay không ngần.
Con xin khóc lóc ăn
năn,
Khóc xin Đức Mẹ một phần sự thương.
Trách mình tội lỗi
là dường,
Làm cho Cha phải
muôn phương nghìn trùng
Trách mình tội lỗi
bấy lâu,
Dường như đanh sắt
đóng thâu nhiều lần.
Dám xin lậy Mẹ Cực
Nhân,
Dẫn đưa con mọn tới
gần Mồ Cha.
Mắt nhìn mạch máu
chảy ra,
Miệng hôn dấu thánh
chân Cha cực lành.
Lòng con cảm mến
ninh ninh,
Tạc ghi vàng đá in
hình tiếng xưa. Amen.
Lễ Hội Tuần Thánh
trong Văn hoá Dân tộc Việt Nam
Lễ hội Tuần
Thánh là một lễ hội mang nét đặc thù của người công giáo Việt Nam, có nguồn gốc
từ nền văn hoá dân tộc, được thích ứng với Đức Tin Công Giáo.
Dân tộc Việt
Nam có truyền thống tín ngưỡng từ lâu đời, thờ kính thần linh một cách rất sùng
mộ. Nền văn minh Lạc Việt vẫn luôn trân quý, tôn trọng những sinh hoạt tập thể,
nét hợp quần vui hội vẫn luôn được thể hiện trong đời sống. Xuân thu nhị kỳ cầu
an, kính vía vị Thần thành hoàng thường biến thành những ngày lễ hội. Tại các
làng giầu có, to lớn, lễ hội có thể kéo dài hàng tuần, linh đình rực rỡ, vui
nhộn náo nhiệt. Làng nhỏ không mấy dư giả, lễ hội cũng vẫn trang trọng, đầy mầu
sắc. Đỉnh cao của ngày lễ hội bao giờ cũng là ngày “vào hèm”, tức là ngày diễn
lại sự tích của vị Thần thành hoàng.
Dựa vào
truyền thống đó, ngay từ khi đạo Công Giáo được rao giảng tại Việt nam, các
linh mục thừa sai Dòng Tên cũng đã biến những nghi thức Tuần Thánh thành những
ngày hội, vừa để giáo dân biết thêm về mầu nhiệm trong Đạo, vừa thoả mãn được
nhu cầu lễ hội của giáo dân, ngăn cản được giáo hữu đi xem lễ hội ngoài làng mà
các ngài cẩn thận sợ đức tin có thể bị lung lạc. Tuần Thánh là dịp thuận tiện để
tổ chức lễ hội, vì thường diễn ra vào mùa Xuân. Công việc đồng áng của nhà nông
miền Bắc trước đây đã vãn. Nó cũng còn trùng vào các dịp lễ hội ở ngoài làng:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè.
Nhưng với
người công giáo thì:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai Ngắm đứng, tháng ba ra Mùa.
“Ra Mùa” ở
đây có nghĩa là hết Mùa Chay của công giáo, tức là Tuần Thánh và lễ Phục Sinh.
Vào dịp này, các xứ Đạo miền Bắc ngày xưa thường tổ chức “tống lễ”, mừng lễ một
cách rất long trọng, biến thành những ngày hội. Giáo dân khắp các họ lẻ tuốn về
họ nhà xứ để tham gia lễ hội.
Lễ hội Tuần
Thánh kéo dài ba bốn ngày. Chính thức vào hội là chiều Thứ Năm. Ta cần nhớ là
các nghi thức Tuần Thánh theo sách lễ Rôma xưa đều được cử hành vào ban sáng.
Sau cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô thứ 2, các lễ nghi mới cử
hành vào buổi chiều như ngày nay. Vì thế thời đó, buổi chiều có thì giờ dành
cho tổ chức lễ hội theo lễ nghi dân tộc. Chúng tôi dùng câu “theo lễ nghi dân
tộc” ở đây, vì những nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa
không làm theo nghi thức của Hội Thánh (theo sách chữ đỏ), mà diễn tả Tin Mừng
theo tình cảm của dân tộc Việt Nam, để trình bầy Mầu nhiệm Cứu chuộc một cách
sống động, qua các diễn biến như sau:
Rước Tiệc Chiên
Chiều Thứ
Năm Tuần Thánh, tín hữu xưa diễn lại việc Chúa chủ tọa bữa tiệc ly ăn lễ Chiên
vượt qua theo với nếp sống của văn hoá người Việt. Vì có đông người tham dự,
không kể giáo dân mà còn có rất đông lương dân kéo đến xem, nên lễ hội thường
được tổ chức tại sân cuối nhà thờ. Người ta trang hoàng một cái rạp trên bục
cao để làm “nhà tiệc ly”. Ở xứ tôi nghe các cụ kể lại, có năm rạp ăn tiệc ly
được cất toàn bằng mía, và lợp bằng bánh đa (bánh tráng nướng).
Những bàn
tiệc được trang hoàng bằng những món ăn cao lương mỹ vị, những quả lạ trái mùa…
Nhưng toàn là được đẽo gọt, sơn phết, bằng củ sắn, củ khoai lang, khoai sọ hay
quả đu đủ…Chúng ta nhớ rằng mùa Chay xưa phải kiêng thịt đủ 40 ngày, nên mới có
“Thứ Ba béo” trước Thứ Tư lễ Tro, để người ta ăn thịt cho thỏa mãn, hầu bước
vào mùa Chay với những ngày dài kiêng thịt. Chính vì thế mà các món ăn trên bàn
tiệc được làm chỉ để cho đẹp mắt. Trên bàn tiệc bao giờ cũng phải có mấy cây
rau diếp, loại cây đã lên ngồng, trổ hoa vàng li ti như cánh bèo tấm, được bứng
trồng vào cái tô men sứ làm tăng phần trang trọng. Việc này nhớ lại xưa dân Do
Thái ăn chiên vượt qua họ cũng được lệnh phải ăn thịt chiên với rau diếp đắng
(Xh 12,8).
Con chiên
được đắp bằng cơm nếp mật. Bên ngoài dán bông làm lông, điểm thêm đôi mắt… và
thế nào cũng phải có một lá cờ đỏ nhỏ, có thánh giá ở giữa, cắm trên lưng con
chiên đó.
Cuộc rước
tiệc chiên rất long trọng. Khởi hành từ một nơi có đặt tượng Đức Mẹ sầu bi, để
đọc Đoạn “Đức Chúa Giêsu giã Đức Mẹ mà đi thành Giêrusalem”. Chiêng đổng trống
cái vang vọng, phường kèn, phường trống râm ran. Những bàn tiệc được khiêng
rước đi. Đi trước bàn tiệc là mười hai chức sắc đóng vai 12 tông đồ, mặc áo
thụng lam có bối tử, đầu đội mũ quan viên, tay chống gậy tông đồ thếp vàng óng
ánh. Mỗi vị có anh thanh niên mặc áo nậu cầm lọng đen che hầu. Rồi đến án thư
rước con chiên, có che hai cây tàn đỏ, Vị linh mục chủ sự mặc áo capha đội mũ
ba múi theo sau, có hai cây lọng xanh hộ tống.
Đến “nhà
tiệc ly”, các vị ngổi vào vị trí hành lễ chung quanh bàn tiệc. Một thầy già
trang trọng đọc bài “giảng sự thương khó Đức Chúa Giêsu” đoạn nói về việc Chúa
ăn lễ Vượt qua. Đọc đến đâu, các viên chấp sự làm theo đến đó.
Nghi thức
Rửa chân cho các môn đệ tiếp nối. Vị linh mục thay mặt Chúa Giêsu cử hành theo
bài “giảng sự thương khó…”. Trước tiên là rửa chân cho Phêrô, trình thuật khúc
này hơi dài vì Phêrô không đồng ý việc sư phụ lại rửa chân cho môn đồ, Chúa
phải giải thích gương phục vụ của Ngài. Người được rửa chân kế là Giuda, rồi
mới tới các tông đồ khác. Vì thế các chức việc được chọn làm tông đồ, ông nào
cũng cố né ngồi chỗ thứ hai…
Nghi thức
chấm dứt. Giáo dân vào nhà thờ để thông công Ngắm Đứng. Trong khi đó ngoài
khuôn viên thánh đường, người ta đã thấy thấp thoáng “đám lính của các Thượng
tế” mặc áo đỏ có nẹp, đội nón dấu, chân quấn xà cạp, tay mang gươm hay vác
giáo, do “một quan cưỡi ngựa” chỉ huy, chuẩn bị hùng hổ đi lùng bắt Chúa. (ngựa
này được đan bằng tre, phất giấy, người cưỡi cột chặt vào thắt lưng để mang
ngựa theo, khi phi ngựa ông phải chạy).
Rước Kiệu
Bắt
Chiều Thứ
Sáu Tuần Thánh là cao điểm của lễ hội. Hôm nay đúng là ngày “vào hèm” để diễn
lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu Cứu Thế: “chịu nạn đời quan Phongxiô
Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác” …
Mở đầu là
cuộc rước Kiệu bắt, gọi là Kiệu bắt vì trong đó diễn lại việc Đức Giêsu bị quân
dữ bắt đem đi hành hình. Cuộc rước này có tới ba kiệu: Kiệu bắt rước Tượng Chúa
Giêsu vác Thánh Giá trên đường lên Núi Sọ, được khởi hành từ một nơi gọi là
“Dinh Trấn Thủ”. Kiệu thứ hai rước Tượng Đức Mẹ sầu bi, có trái tim bị bảy cây
kiếm đâm thâu, đặt tại một nơi khác gọi là thành Giêrusalem. Kiệu thứ ba là
Tượng Thánh Gioan tông đồ, sắp tại nơi gần Dinh quan Trấn Thủ.
Kiệu Thánh
Gioan về Giêrusalem báo tin cho Đức Mẹ: Chúa đã bị lên án tử và đang vác Thánh
Giá ra pháp trường. Đức Mẹ vội vã theo Thánh Gioan đi đón để gặp mặt Chúa. Cứ
thế, lộ trình của hai đoàn rước cùng tiến về nhà thờ. Khi hai đoàn kiệu gặp
nhau, mỗi bên kiệu có một người “đọc đoạn” diễn lại những lời tâm tình của hai
mẹ con khi gặp nhau trong cảnh bi thương ấy. Đức Giêsu yên ủi Đức Mẹ và xin Đức
Mẹ trở về để khỏi chứng kiến cảnh Chúa bị hành hình. Nhưng Đức Mẹ nhất quyết đi
theo đến tận nơi Chúa chịu đóng đanh để được góp phần đồng công cứu chuộc !…
Khi người đọc đoạn bên kiệu Đức Mẹ đọc đến câu: “Con tôi đi đâu thì Mẹ theo đi
đấy” … Trống chiêng lại lên hồi, hai đoàn rước nhập làm một, tiến vào nhà thờ,
nơi đã dọn sẵn “đẳng ngắm” tượng trưng cho đồi Can-vê, pháp trường xử Chúa.
Đóng Đanh
Vào trong
nhà thờ, cả ba kiệu cùng tiến lên gần cung thánh. Kiệu Chúa vác Thánh Giá được
đưa vào hẳn trong cung thánh, sau bức màn ngăn cung thánh đã được buông sẵn.
Kiệu Đức Mẹ đặt phía bên trái đẳng ngắm. Kiệu Thánh Gioan đặt phía bên phải,
đối diên với kiệu Đức Mẹ.
Một vị “đọc
đoạn” lão luyện, thường là một thầy già, có khi là một linh mục có giọng đọc
diễn cảm, trang trọng đứng trên một bục cao để “giảng sự thương khó Đức Chúa
Giêsu” qua đoạn quân Giudêu đóng đanh Chúa. Tiếng đọc đoạn thảm thương não nuột
khi bổng khi trầm, lúc cao lúc dịu, diễn cảm tùy theo tình tiết mô tả cuộc hành
hình. Thêm vào đó, khi đọc đến tình tiết nào thì từ cung thánh vọng ra những âm
thanh đúng như được diễn đọc mô tả, như tiếng xé áo Chúa, tiếng xô vật Chúa
trên Thánh giá, tiếng búa đóng đanh nghe chan chát chói tai rùng rợn… tiếng reo
hò của quân dữ khi dựng Thánh giá lên…Quang cảnh ấy, âm thanh ấy làm nhiều
người cảm động bật khóc thương Chúa…
Khi Thánh
giá đã được dựng lên cũng là lúc bắt đầu ngắm 15 sự thương khó Chúa một cách
trọng thể. Người ngắm mặc áo tang, được trống phách rước lên. Trong khi ngắm,
được thầy già cầm trịch thưởng bằng những “lèo“ mèn, trống từ loại nhỏ đến loại
lớn, lần lượt đánh nối theo nhau, thành một chuỗi âm thanh tiến cấp ! Những
người ngắm giỏi thường được hưởng nhiều lèo, có khi lèo kép đôi, kép ba…
Cứ hết 5
ngắm, lại có một tốp thiếu nữ lên “dâng hạt” (ở xứ lớn có thể hai, ba dâu dâng
hạt). Trong khi dâng hạt cũng có lèo thưởng.
Tháo Đanh,
Táng Xác
Khi ngắm đến
khoảng ngắm thứ 12, 13, ngoài nhà thờ có cuộc “tập đòn”. Người ta chuẩn bị cho
việc tháo đanh, táng xác Chúa. Kiệu táng Xác là kiệu đặc biệt, phần chính kiệu
là một “cái săng” lộng kính, được trang trí bằng những dây nả (lúa được rang
lên cho nổ gạo ra như cái hoa, rồi dùng chỉ xâu lại).Các nhân viên phù giá kiệu
táng xác (không gọi là đô tùy hay chân đòn đám ma) mặc đồ tang, tay cầm bộ
“sênh”, tập khiêng kiệu cho có quy cách. Tiếng lệnh, tiếng sênh phải ăn khớp
với bước đi cho đều, bày tỏ được sự cung kính cẩn trọng.
Kết thúc
mười lăm ngắm và các dâu dâng hạt, đoàn người “tập đòn” ấy biến thành đoàn rước
vào nhà thờ để tháo đanh, táng Xác Chúa. Đi trước kiệu là hai người đóng vai
Giuse Amarithia và Nicôđêmô, mặc bộ đại tang, mỗi người mang theo một cái thang
nhỏ, đầu thang có treo một cái búa và tấm khăn liệm trắng.
Khi hiệu
lệnh đặt kiệu xong giữa lòng nhà thờ, bài giảng sự thương khó Đức Chúa Giêsu,
đoạn tháo đanh, táng Xác được diễn đọc, hai vị đóng vai môn đệ tháo đanh Chúa
cứ làm đúng theo diễn tiến của người đọc đoạn. Tượng Chuộc Tội được tháo xuống
đặt trước kiệu Đức Mẹ, người ta cũng được nghe những tiếng than khóc thảm thiết
của Đức Mẹ và Thánh Gioan qua sự diễn tả của những người nhập vai đọc đoạn.
Cuối cùng thì Thánh Gioan cũng xin Đức Mẹ bớt sự phiền mà để cho môn đệ lo việc
an táng.
Xác Chúa
được liệm vào “săng”, vì “săng” được lộng kính nên mọi người có thể nhìn thấu.
Kiệu táng Xác khởi hành. Mọi tín hữu tham dự đều mặc đồ trắng, đầu chít khăn
tang, tay cầm nến sáng. Tiếng chiêng đồng, trống cái, tiếng lệnh, tiếng sênh
cái, sênh con cứ tuần tự theo nhịp gióng ba vang lên. Khi tiếng sênh con vừa
dứt là mọi người đồng loạt đưa cao cây nến và cất lên, cung điệu thảm thương
chậm rãi, câu từ trong Kinh Cầu chịu nạn: “Chúa Giêsu đầy tớ táng trong hang đá
- Thương xót chúng tôi” . Đoàn kiệu táng Xác cứ trang nghiêm lặp lại thứ tự
những âm thanh ấy, cho đến hang đá.
Hang đá là
mấy gian nhà đã được trang hoàng bằng cây tươi, cột lại thành đường vòm, chỉ có
thể quỳ, nếu đứng phải lom khom, để mọi người vào kính viếng, hôn chân Chúa
phải đi bằng hai đầu gối.
Khi kiệu
táng Xác được đặt vào vị trí, linh mục chủ sự tiến vào hôn chân tượng Chúa đầu
tiên. Ngài có xức dầu thơm để mọi người cảm nhận như hương thánh ân tràn vào
tâm hồn qua việc tôn kính mồ Chúa. Người ta cũng đổ nả và hoa xoan vào “săng”
khiến hang đá phảng phất một mùi thơm đặc biệt.
Đám ma Giuđa
Trong khi
nhiều người còn đang chờ đến lượt lên hôn chân Chúa, thì ngoài kia lại có một
đám tang nữa. Đó là đám ma Giuda. Tông đồ Giuda đã nhận 30 đồng bạc để nạp
Chúa. Khi thấy Chúa bị án tử, y đem tiền trả lại các Thượng tế, họ không nhận
mà còn tỏ vẻ khinh bỉ y, “và y đã ném bạc vào thánh điện, đoạn lui về mà ra đi
thắt cổ” (Mt 27,5). Trong lễ hội có nơi còn làm một hình nộm Giuda, cho mặc
quần áo xốc xếch, đem treo hình nộm ấy toòng teng trên một cây cao nào đó. Lại
có một người đóng vai vợ Giuda đi tìm chồng, khi thấy Giuda treo cổ tự vẫn,
nàng mới tri hô lên, người ta tuốn đến… Nàng khóc bù lu bù loa thảm thiết kề lể
các tội của Giuda, và tiếc thay cho con người đã theo Chúa mấy năm trời mà vẫn
bị tiền của che mất chân lý, lại thêm yếu lòng tin, thiếu lòng trông cậy và
không có tình yêu mến, nên mới ra nông nỗi…
Người ta xúm
lại xem đám ma Giuda không kèn không trống, ít người tham dự. Một vài người
khiêng xác Giuda trên tấm ván thô sơ. Vợ y theo sau lẽo đẽo than khóc… Đám ma
đi mất hút vào bóng đêm tăm tối.
Phá Lâm-bô
Theo phụng
vụ của Hội Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh là ngày âm thầm lặng lẽ, không cử hành lễ
nghi nào. Thời gian này tượng trưng cho những giờ phút Chúa nghỉ yên trong mồ.
Lễ hội Tuần Thánh hôm nay kỷ niệm Chúa chịu “chết và táng Xác, xuồng ngục tổ
tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại.” Sáng Thứ Bảy xưa dùng để các
đoàn thể và các họ trong xứ thay nhau viếng hang đá. Họ tổ chức những cuộc rước
nhỏ, đem nả và nến đến viếng mồ và hôn chân Chúa. Buổi chiều có tổ chức rước
kiệu đi Đàng Thánh Giá trọng thể ngoài trời, để cùng với Đức Mẹ ôn lại chặng
đường khổ nạn Chúa đã đi qua. Kiệu ngắm Đàng Thánh Giá rước tượng Đức Mẹ sầu bi
đứng dưới chân Thánh Giá có vắt tấm khăn trắng, hai cái thang dùng tháo đanh bắc
hai bên.
Sau khi ngắm
14 nơi Đàng Thánh Giá, kiệu vào nhà thờ để tiếp tục Ngắm Dấu Đanh, suy niệm về
Năm Dấu Thánh Chúa, đã bị đanh sắt, lưỡi đòng gây thương tích. Nguời ngắm cũng
được trống phách rước lên và lèo thưởng như Ngắm Đứng.
Xong Ngắm
Dấu Đanh là chuẩn bị cho Thánh Lễ Vọng Phục Sinh. Trong Thánh Lễ, các bài Sách
Thánh diễn tả những biến cố quan trọng từ ngày Sáng thế, nhất là biến cố Vượt
qua trong Sách Xuất Hành để chuyển sang cuộc Vượt Qua của Chúa Cứu Thế từ cõi
chết bước qua Phục Sinh vinh hiển. Chủ tế long trọng hát mở đầu Kinh Gloria
Vinh Danh Thiên Chúa…Chuông nhà thờ, sau ba ngày im bặt, lại vang ngân âm điệu
hân hoan mừng Chúa sống lại khải hoàn. Từ mồ thánh, người ta rước tượng Chúa
Phục Sinh uy nghi lẫm liệt lên bàn thờ. Ngay sau khi kiệu Chúa Phục Sinh ra
khỏi mồ, đám thanh niên trai tráng hò reo phá Lâm-bô.
Lâm-bô hay
còn gọi là Ngục Tổ tông như trong ngắm thứ 14 đã gẫm: “khi Linh hồn Đức Chúa
Giêsu ra khỏi Xác xuống Ngục Tổ tông cứu những linh hồn Các Thánh xưa ở đấy…”
nói lên ý nghĩa “Đức Giêsu đã xuống chỗ sâu thẳm của cõi chết, để những người
chết được nghe tiếng Con Thiên Chúa, và những ai nghe tiếng Ngài thì được sống”
(Ga 5,25) “vì Tin Mừng cũng đã được loan báo cho những người đã chết” (1Pr
4,6). Phá Lâm-bô ở đây là đám trai tráng vui đùa dỡ bỏ hang đá nơi đã đặt tượng
Xác Chúa. Việc làm đó có mục đích nhấn mạnh cho mọi người: ý nghĩa cao trọng
của Mầu nhiệm Cứu Chuộc, Chúa Phục sinh đã chiến thắng sự chết, phá tan xiềng
xích tội lỗi của Satan, mở ra cho nhân loại một sinh lộ, dẫn đến Vương quốc
Tình Yêu Thiên Chúa.
Kiệu Mừng
Để kết thúc
cho những ngày Lễ Hội Tuần Thánh, chiều Chúa Nhật Phục Sinh là cuộc rước Kiệu
Mừng. Gọi chung là Kiệu Mừng, nhưng thật ra cuộc rước này có hai kiệu. Kiệu
Tượng Chúa Phục Sinh, và kiệu Tượng Đức Mẹ. Hai kiệu xuất phát từ hai địa điểm
khác nhau, cùng tiến về nhà thờ, để rồi hai đoàn kiệu gặp nhau tại cuối nhà
thờ. Ở đó có cuộc “bái kiệu”. Bái kiệu là các người chân kiệu vai vẫn khiêng
kiêu, nhưng nghe theo hiệu lệnh phải bái gối. Để nghi thức bái kiệu được nhịp
nhàng, cung kính nên đã có sự tập dượt kỹ. Bên kiệu Đức Mẹ có bốn cô thiếu nữ
được tuyển chọn có giọng ca tốt, học câu Đức Mẹ chào mừng Chúa theo cung Ngắm
Lễ Mùa Mừng, các thiếu nữ này đứng trong gầm kiệu, cũng phải bái theo tám người
chân kiệu. Bên kiệu Chúa Phục Sinh bốn anh thanh niên cũng được tập hát cung
Evan câu Chúa đáp lại.
Cuộc gặp gỡ
giữa Đức Mẹ và Chúa Phục Sinh khi hai kiệu đứng đối diện nhau. Hiệu lệnh được
ban ra, các đoàn thể đi kiệu dàn ra hai bên, cung chiêm cuộc bái kiệu. Kèn
trống ngưng biểu diễn. Bầu khí trang nghiêm thinh lặng. Trống mèn chấp hiệu bên
kiệu Đức Mẹ lên hiệu bắt đầu “bái kiệu”. Tám người khiêng kiệu và bốn thiếu nữ
đều bái gối sao cho kiệu không rung, không nghiêng lệch. Khi kiệu đứng lên,
tiếng chào bên kiệu Đức Mẹ được cất lên:
- “Mừng Con
Tôi rầy đã được sống lại sáng láng vui vẻ vô cùng, i i i”
Kiệu Đức Mẹ
bái Chúa ba lần, trịnh trọng và trang nghiêm. Đến bên kiệu Chúa Phục sinh bái
đáp lễ một lần, tiếng chào đáp cũng được ngân lên:
- “Con mừng
Mẹ cùng các Đầy tớ rầy được bình an, i i i”
Tiếng chào
đáp vừa dứt, kèn trống lại nổi lên, hai đoàn rước nhập làm một tiến vào nhà
thờ. Kiệu Chúa đi trước, kiệu Đức Mẹ theo sau. Khi các kiệu an vị hai bên cung
thánh, là cuộc ngắm 5 sự Mừng của Kinh Mân côi, theo bản ngắm dài mà người ngắm
đọc theo cung giọng Evan. Y phục của người lên ngắm là khăn đóng, áo thụng lam,
họ cũng được rước lên bằng trống phách…
Giầu thêm
văn hoá
Chúng tôi
vừa trình bầy một số nét về cách diễn tả cuộc thương khó và phục sinh của Chúa
Giêsu, mà người Công Giáo Việt Nam trước đây đã cử hành theo tình cảm dân tộc,
như một lễ hội. Chúng tôi chỉ viết theo những gì đã cảm nhận được từ thời thơ
ấu mà năm nào cũng háo hức được đi xem. Mấy trang này chắc chắn không diễn tả
hết được cái phong phú, cũng như ý nghĩa mà cha ông chúng ta muốn bày tỏ trong
lễ hội. Chúng tôi ước mong sưu tầm được những tài liệu về đời sống đạo của
người xưa, cũng như sự quan tâm góp ý của quý vị, để có thể viết được nhiều chi
tiết về lễ hội này. Chúng tôi cũng đồng ý với nhiều người đã nhận ra đời sống
đạo của người công giáo Việt Nam luôn thích ứng vào nét đẹp văn hoá và truyền
thống dân tộc. Điều đó chứng tỏ rằng Đạo Công Giáo khi đến Việt Nam đã làm
phong phú thêm cho nếp sống văn hoá Lạc Việt, chứ không phải người công giáo
Việt Nam quên mất cội nguồn.
Dám mong một
số nét tiêu biểu của Lễ Hội Tuần Thánh chúng tôi ghi lại trên, như một gợi ý
cho các vị cao minh khai triển, đồng thời cũng giúp các bạn trẻ có một khái
niệm về nếp sống đạo của cha ông chúng ta thuở trước.
(Tuần Thánh 2008)
Hoàng Đức Trinh
(Nguồn: Vietcatholic.com)
Có nên đeo tang trong ngày thứ Sáu tuần Thánh ?
Có 3 lý do
được trình bày dưới đây khiến chúng ta phải loại bỏ việc đeo tang trong ngày
thứ Sáu Thánh:
I. Thứ nhất:
thứ Sáu thánh không phải là đám tang của Đức Giêsu
Theo văn hóa
Việt Nam, tang phục là để thể hiện tình nghĩa, lòng thương xót giữa kẻ mất
người còn, diễn tả sự thương tiếc người chết. Do đó, đồ tang phải dùng là vải
trắng loại sô, loại xấu để lộ vẻ tiều tụy hay tỏ ý đau đớn. Khi đeo tang trong
ngày thứ Sáu Thánh, các tín hữu đang thể hiện tinh thần này đối với Đức Giêsu.
Sở dĩ một số giáo xứ đeo tang như vậy là vì họ vẫn muốn giữ tập tục đã có từ
xưa theo ý định thích nghi và hội nhập văn hóa của các thừa sai Dòng Tên, đặc
biệt là linh mục Alexandre de Rhodes, khi truyền giáo tại Việt Nam. Bấy giờ
(thế kỷ XVII), trong Mùa Chay và Tuần Thánh, các thừa sai đã tổ chức nhiều hình
thức sinh hoạt hấp dẫn khác nhau cho giáo dân tham dự như: i] Rước tiệc chiên
vào thứ Năm Thánh; ii] Thứ Sáu Thánh thì có Rước kiệu bắt, Đọc đoạn, Ngắm đứng,
Dâng hạt, Tháo đinh, Táng xác Chúa với việc các tín hữu mặc đồ trắng và đầu
chít khăn tang; iii] Viếng hang đá, Hôn chân Chúa, Rước kiệu đi Đàng thánh giá
trọng thể ngoài trời, Ngắm Dấu Đinh trong ngày thứ Bảy Thánh; iv] Chúa nhật
Phục sinh thì có kiệu tượng Chúa Phục Sinh và Đức Mẹ…
Thực hành
đeo tang và than khóc tại Việt Nam lúc đó xét là phù hợp vì cũng tương đồng với
quan niệm về ngày thứ Sáu Thánh ở khắp nơi trong Hội Thánh. Các tín hữu thời
bấy giờ đã gọi ngày này là ngày thương khóc, than vãn, thương tiếc và sầu buồn
trước cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Bởi thế, trước Công đồng Vatican
II, vào thứ Sáu Thánh, tư tế cũng như phó tế mặc phẩm phục đen như trong nghi
lễ an táng.1
Nhưng nay,
tinh thần của ngày thứ Sáu Thánh không còn sắc thái than vãn, u buồn và tang
tóc nữa. Trước khi thay đổi lịch phụng vụ diễn ra năm 1969, Tam nhật được gọi
là Tam nhật thánh chứ không phải Tam nhật vượt qua. Vượt qua hay Phục sinh chỉ
quy chiếu vào Chúa nhật Phục sinh mà thôi. Năm 1956, thứ Sáu Thánh có cái tên
là “Thứ Sáu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa”. Đến năm 1969, ngày này mang
tên chính thức là “Thứ Sáu của cuộc thương khó Chúa”2 nhằm phản ánh nội dung phụng vụ là cử hành cuộc Thương khó của Đức Giêsu như
được ghi trong Sách lễ của Đức Phaolô VI (1970). Người ta còn đề nghị thứ Sáu
Thánh mang một cái tên mới là “Thứ Sáu Phục sinh” vì muốn nhấn mạnh rằng vinh
quang phục sinh ẩn dấu trong thánh giá và đang được thể hiện trong chính ngày
này. Chính thánh Irênê và Tertunianô đã từng nói về ngày này là ngày Vượt qua
(Pasch) theo nghĩa là một vận hành dẫn đến sự sống (x. Ga 12,24).3
Thứ Sáu
Thánh là ngày tưởng niệm cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu, nhưng đồng
thời lại tưởng niệm và kính mừng sự sống vì không giống như bất kỳ cái chết nào
khác trên trần gian, Đức Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết và Ngài là “Đấng Hằng
Sống, đã chết, và nay sống đến muôn thuở muôn đời” (Kh 1,18).4 Đức Giêsu bị giết chết, tưởng rằng đó là một thất bại,
nhưng lại là cuộc chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và tử thần. Cho nên, hệ quả
là:
i] Trong thứ
Sáu Thánh, chúng ta hân hoan trước chiến thắng của Đức Giêsu, vui mừng tham dự
vào cuộc vinh thắng tình yêu của Ngài.5 Các bản văn
phụng vụ và những bài hát để kính thờ thánh giá trong thứ Sáu Thánh đều quy
chiếu về phục sinh và bày tỏ cho chúng ta khía cạnh vinh quang và hân hoan của
ngày này.6
ii] Không
nên tách rời cái chết của Đức Giêsu ra khỏi cuộc phục sinh của Ngài, nhưng luôn
coi đó như một thể thống nhất của “mầu nhiệm vượt qua”. Tam nhật Vượt qua phải
được coi là một cử hành kéo dài, tức cử hành biến cố phục sinh vĩ đại. Cuộc
thương khó của Đức Giêsu chỉ là một phần trong Tam nhật Phục sinh mà điểm kết
thúc không phải là cái chết nhưng là sự sống.
Về màu sắc
phụng vụ, hôm nay Hội Thánh sử dụng màu đỏ thay cho màu đen. Đây là màu của máu
và tử đạo nhằm nói lên rằng Đức Giêsu là vị tử đạo đầu tiên. Ngài đã thực sự
chấp nhận cái chết và hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương nhân loại và vâng
phục thánh ý Chúa Cha. Màu đỏ cũng là màu của vương quyền như vẫn được thấy
trong nghĩ lễ phong vương. Điều này muốn ám chỉ rằng Đức Giêsu bước vào cuộc
thương khó ngay từ Chúa nhật Lễ Lá trong tư cách của một vị Vua. Ngài đã được
mọi người nhận ra và tung hô là Con vua Đavit và là Vua It-ra-en (x. Ga 12,13).
Vinh quang vương quyền thực sự được chiếu tỏa ngay trong chính cái chết của
Ngài và sẽ được mặc khải trọn vẹn vào ngày phục sinh.
Hơn nữa, mặc
dù trong và sau cử hành phụng vụ thứ Sáu Thánh, bầu khí cộng đoàn trầm lắng và
thinh lặng nhiều (nhà tạm để trống, không có Thánh Thể trong thánh đường, bàn
thờ không phủ khăn, không nến và không thánh giá, vị chủ sự và giúp lễ thinh
lặng phủ phục ngay từ đầu buổi cử hành…) nhưng hoàn toàn không phải mang sắc
thái tang tóc. Trái lại, thứ Sáu Thánh hướng chúng ta tới những hồng ân của
Chúa: Ngài đã cứu độ và giải thoát chúng ta. Như trong thời của thánh
Augustino, các tín hữu khắp nơi đã gạt bỏ y phục tang tóc trong ngày này để
mừng vui trong “chiến tích của thập giá”.
II. Thứ hai:
thứ Sáu Thánh làm kiểu mẫu cho nghi lễ an táng chứ không thể ngược lại
Nguyên tắc
là hình thức đạo đức phát xuất từ phụng vụ và dẫn đưa dân chúng đến với phụng
vụ, vì tự bản chất, phụng vụ vượt xa các việc ấy.7 Phụng vụ thứ Sáu Thánh giải thích rõ ràng cho chúng ta bằng lời và hành
động ý nghĩa căn bản cái chết của Đức Giêsu. Chúng ta không thể tách biệt cái
chết này ra khỏi sự sống lại của Ngài.
Phụng vụ thứ Sáu Thánh chiếu soi suy nghĩ và xây dựng thái độ của chúng
ta đối với cái chết,8 và là mô hình cho
chúng ta trong vấn đề mục vụ khi “cử hành” cái chết của những người thân yêu
trong nghi lễ an táng. Nói cách khác, tuy cử hành thứ Sáu Thánh không phải là
đám tang của Đức Giêsu, nhưng lại mặc khải một cách sống động nhất những gì làm
thành đám tang của người Kitô hữu. Tất cả những nghi lễ khác nhau trong cuốn
Nghi thức An táng Kitô hữu hiện nay diễn tả đức tin này: mầu nhiệm Chúa Kitô
chịu chết và phục sinh hàm chứa mầu nhiệm sự chết của con người và mầu nhiệm sự
chết của con người gắn chặt với mầu nhiệm Chúa Kitô chiến thắng tử thần (x. Rm
6,3-5; 1Cr 15,51-57).
1. Nghi lễ
an táng trước Công đồng Vatican II
Nếu ai đã
từng tham dự nghi lễ an táng trước Công đồng Vatican II 9 thì sẽ nhìn cũng như cảm thấy một bầu khí ảm đạm và u
buồn bao quanh đám tang: lễ phục đen, những bài thánh ca tang tóc và những kinh
nguyện thảm thương. Còn bên ngoài phụng vụ, thêm vào cho bầu khí buồn thảm, bi
thương của đám tang thường là những bài điếu văn dài lê thê và những chia sẻ
thống thiết. Đây là hệ quả của một viễn tượng thần học quá nhấn mạnh đến lỗi
lầm của con người và sự xét xử của Thiên Chúa hơn là sự thiện hảo nơi con người
và lòng thương xót của Thiên Chúa; quá nhấn mạnh cái chết hy sinh của Chúa Kitô
hơn là sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết; quá nhấn mạnh đến bản
án phải chết đời đời hơn là gieo niềm hy vọng được cùng sống lại với Đức Kitô.
Trong bầu khí như thế, tâm trí của người tham dự thường là sợ hãi. Họ dễ dàng
cho rằng người chết thật khó vào Nước Trời. Nếu người quá cố có xứng đáng vào
Thiên Quốc thì ít ra cũng phải chịu nhiều hình phạt đau đớn trong luyện ngục.
Đương nhiên kẻ nào phạm tội trọng mà chưa kịp xưng thú thì sẽ bị kết án đời đời
trong hỏa ngục. Cũng may, khía cạnh mừng vui và vượt qua như trong phụng vụ an
táng thuộc thời kỳ đầu của Giáo Hội còn xuất hiện trong phần kết thúc của nghi
thức.10
2. Nghi lễ
an táng sau Công đồng Vatican II
So với phụng
vụ an táng tiền Công đồng Vatican II, cuốn Nghi lễ an táng Kitô giáo (được ban
hành bởi Thánh bộ Phụng tự Thánh ngày 15 tháng 8 năm 1969) cho thấy những điểm
khác biệt như sau:
● Nhấn mạnh
tính phục sinh của cái chết Kitô giáo. Do đó, khi một người tín hữu ly trần,
Giáo Hội sẽ cử hành mầu nhiệm Thiên Chúa hằng sống, Ngài là Chúa của kẻ sống để
những ai “an giấc trong Chúa” thì sẽ được cùng sống với Ngài (x. 1Tx 4,13-14).
Trong nghi lễ an táng, Giáo Hội hân hoan trao một thành viên của mình cho cộng
đoàn các thánh;11
● Có sự quân
bình hơn khi nhìn nhận nỗi đau buồn của tang quyến và muốn đem lại niềm ủi an
và hy vọng cho họ (x. Rm 12,15), trong khi nghi lễ an táng trước năm 1969 không
có bất cứ lời nguyện nào dành cho người sống cũng như gia đình của người quá
cố;12
● Nài xin
Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và khiếm khuyết, công bố niềm tin và niềm hy vọng
vào lòng thương xót của Chúa và chiến thắng của Chúa Kitô trên sự chết nhờ sự
phục sinh của Ngài (trọng tâm của cử hành chính là mầu nhiệm vượt qua);13
● Thay thế
lễ phục và trang trí màu đen bằng màu tím;14
● Không còn
hát ca tiếp liên “Ngày thịnh nộ” (Dies Irae);15
● Có nhiều
bài đọc Kinh Thánh để chọn công bố trong Thánh lễ an táng. Nội dung của những
bản văn Kinh Thánh này ít nhấn mạnh đến tội lỗi, nhưng nói về lòng thương xót
và sự ủi an của Thiên Chúa; Đức Kitô chiến thắng tử thần; vẻ đẹp của thiên
đàng. Không còn cái nhìn bi quan, xa cách, khiếp sợ của Cựu Ước, nhưng chú
trọng đến niềm hy vọng nơi Ðức Kitô.
● Những lời
nguyện tuy có đề cập đến tội lỗi và thiếu sót của con người nhưng cũng không
quên nhấn mạnh đến lòng xót thương của Thiên Chúa cho những ai thông dự vào Bí
tích Thánh Thể…16
III. Thứ ba,
hướng dẫn của Hội Thánh về lòng đạo đức bình dân
Dưới ánh
sáng của Công đồng Vatican II nói chung và của Hiến chế Phụng vụ Thánh nói
riêng, chúng ta cần trân trọng, ưu ái, duy trì và khuyến khích những việc đạo
đức bình dân như vừa nêu trên đây.17 Bởi vì
chính lòng đạo đức bình dân cũng là một thực thi của Giáo Hội, do Chúa Thánh
Thần khởi xướng và duy trì. Thêm nữa, lòng đạo đức bình dân có một cảm thức gần
như bẩm sinh về thánh thiêng và siêu việt, là công cụ Chúa ban để gìn giữ đức
tin của dân Chúa.18 Theo Hiến chế Phụng
vụ Thánh:
Những việc
đạo đức của dân Kitô giáo bao lâu còn được thích hợp với các lề luật và quy tắc
của Giáo hội thì còn được khích lệ rất nhiều, nhất là khi thi hành theo chỉ thị
của Tông tòa. Những việc thánh thiện của các Giáo hội địa phương cũng được đặc
biệt tôn trọng, khi được thi hành theo các chỉ thị của giám mục, hợp với tập
tục hoặc các sách đã được chính thức phê chuẩn. Nhưng phải chiếu theo các mùa
phụng vụ để xếp đặt các việc ấy cho hòa hợp với phụng vụ thánh, để có thể được
coi là phát xuất từ phụng vụ và để tiến dẫn dân chúng đến phụng vụ, vì tự bản
chất, phụng vụ vượt xa các việc ấy. 19
Tuy nhiên,
cũng cần phải canh tân và Tin Mừng hóa, cũng như định hướng và đôi khi sửa sai
nếu việc đạo đức bình dân có các yếu tố không còn hài hòa với tinh thần phụng
vụ mới, hạ giá trị phụng vụ hay gây tác hại cho phụng vụ của Giáo Hội.20
IV. Thay lời kết
Việc đầu đội
tang trong ngày thứ Sáu Thánh thường đi kèm với các biểu hiện của lòng đạo đức
bình dân như Ngắm đứng, Tháo đinh, Táng xác Đức Chúa Giêsu. Trong nghi thức này
có một loại kinh nguyện gọi là “Đọc đoạn” và “Than mồ”. Nội dung và cung giọng
của Đọc đoạn và Than mồ nhằm diễn tả sự đau thương của Chúa chịu chết vì nhân
loại. Tất cả sự kiện này phản ánh các tín hữu đang tham dự “Đám tang của Đức
Giêsu”.
Dựa vào
hướng dẫn của Giáo hội, chúng ta nên giữ lại những việc đạo đức bình dân như
Ngắm đứng, Tháo đinh, Táng xác Đức Chúa Giêsu… như tập tục từ bao lâu nay. Thế
nhưng, căn cứ vào 3 lý do được trình bày ở trên, để hòa hợp với tinh thần và cử
hành phụng vụ thứ Sáu Thánh hiện nay, chúng ta nên bỏ đi việc đội khăn tang;
sửa lại nội dung các bài ngắm cho phù hợp với bản văn Kinh Thánh;21 xem xét lại cung giọng hay cung điệu quá đỗi thảm thương
não nuột …Những thay đổi này nhằm mục
đích làm cho việc đạo đức bình dân quy chiếu nhiều hơn vào Kinh Thánh và phụng
vụ. Tất nhiên, phải làm cách nào để không gây thiệt hại cho các tín hữu.22
Nguồn cgvdt.vn | Lm. Giuse PHẠM ĐÌNH ÁI, Dòng Thánh Thể
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét