TẠI SAO PHẢI HỌC GIÁO LÝ HÔN NHÂN
TRƯỚC KHI CƯỚI
Chúa xếp đặt mọi sự ngay cả trong việc hôn nhân nên chúng ta cầu nguyện Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta lựa chọn được người bạn đời đúng ý Ngài, và việc hỏi cha mẹ hay những người khôn ngoan sẽ giúp ta đánh giá người bạn đời.
01. Tại sao phải chuẩn bị hôn nhân?
Trong Tin Mừng Chúa phán không có ai toan làm điều gì mà không tính toán trước, huống hồ việc hôn nhân là việc chung thân đại sự. Nhiều cặp vợ chồng lấy nhau lẹ, không sửa soạn sau này dễ bỏ nhau hơn, cả trong trường hợp vì người vợ có thai mà lo hôn nhân, nhiều khi vì áp lực của cái thai mà làm đám cưới cũng sẽ đưa đến kết quả tai hại. Tại sao có tệ nạn ly dị và ly thân hay là gia đình xào xáo, sống với nhau như hoả ngục? Chỉ vì không sửa soạn hôn nhân trước. Vì thế tài liệu ngắn gọn cụ thể sau đây giúp bạn suy nghĩ trước khi đi vào cuộc sống lứa đôi. Giáo hội đòi bạn báo cho nhà thờ biết trước 4 hay 6 tháng, không phải chỉ để “giữ chỗ” nhà thờ, nhưng quan trọng là để hai người tìm hiểu nhau và học hỏi xem hôn nhân họ toan tính sẽ thành công hay không? Hơn nữa thời gian này để cho họ cầu nguyện xin Chúa soi sáng giúp đỡ tìm ra được người theo ý Chúa.
Trong lễ hôn nhân nào người ta thường đọc bài thánh kinh về chuyện Tobia. Hôn nhân của cậu này do Chúa “làm mai” và xếp đặt. Ðiều này cho thấy muốn thành công trong hôn nhân cần ơn của Chúa.
02. Hôn nhân là gì?
Hôn nhân là một bí tích, một khế ước giao hoán, một cam kết, một sự dấn thân.
Khi con người sinh ra trên trần gian chỉ có đàn ông trước. Sau đó Chúa thấy đàn ông ở một mình không tốt, nên tạo nên người nữ đầu tiên là Evà. Như thế hôn nhân nam nữ là tự nhiên như âm dương, như trời đất, như nước lửa, như proton và electron, để tạo nên sự sống. Trong nam và nữ có cái gì thu hút nhau để họ tìm đến nhau và kết hợp với nhau tự nhiên. Do đó trước khi Chúa ra đời đã có hôn nhân trong tình trạng tự nhiên. Và trong thời gian đó vì con người còn sơ khai nên không có qui luật cho hôn nhân: con người có thể ly dị dễ dàng, đàn ông có nhiều vợ như Salomon có 3000 mỹ nữ, hay những chuyện anh chết thì vợ anh lấy em… Tuy nhiên khi Chúa Giêsu xuống trần, ngài đã lập bí tích hôn nhân tại tiệc cưới Cana khi làm phép lạ đầu tiên cho vợ chồng nghèo khỏi mất mặt. Phép lạ là dấu chỉ Chúa là Thiên Chúa, là dấu chỉ nước Thiên Chúa đến, là dấu chỉ người ta không được sống như xưa nữa, và là dấu bên ngoài Chúa thiết lập qua dấu chỉ đó Chúa gặp ta, ban ơn cho ta. Phép lạ tiên báo những bí tích trong giáo hội trong đó có bí tích hôn nhân, trong đó cặp vợ chồng không còn là hai mà nên một như nước hoá thành ruợu và không vì lý do nào được bỏ nhau vì chính Thiên Chúa dùng quyền năng ngài liên kết họ với nhau. Hôn nhân là bí tích quan trọng nên giáo hội đòi con cái có sửa soạn và cử hành rất long trọng.
Hơn nữa hôn nhân là một khế ước trao hoán: đổi trao hai thân xác, hai cuộc đời. Từ nay thân xác anh là của em, thân xác em là của anh, như thế việc chiếm hữu thân xác chỉ dành cho vợ chồng. Như thế ngoại tình không những lỗi đức trong sạch mà còn lỗi đức công bình và một trong những lý do giáo hội cho ly thân là khi bắt gặp quả tang đang phạm tội ngoại tình. Ðây là khế ước như khế ước của pháp luật nên các chính quyền có ra qui luật cho hôn nhân và là công dân thì chúng ta phải tuân theo những luật lệ về khế ước hôn nhân đó. Chính vì thế muốn làm đám cưới tại nhà thờ hai vợ chồng phải xin marriage license nơi toà án đời trước ngày cưới 20 ngày.
Hôn nhân còn là sự cam kết yêu nhau, trung thành với nhau cũng như cam kết chung sống. Không bao giờ vợ chồng được phép xa nhau quá 6 tháng. Nếu vì lý do nào phải xa nhau thì nên di chuyển đến chung sống với nhau, vì sự xa cách nhau dễ mang lại cám dỗ cho hai người cũng như làm cho đời sống lứa đôi bị thương tổn dễ mang đến ly dị hay ly thân. Riêng người chồng cam kết nuôi nấng vợ và con cũng như cung ứng những nhu cầu vật chất cho gia đình. Người vợ muốn đi làm, trong tình trạng hiện nay, chỉ là để tăng ngân quĩ trong gia đình chứ không phải để được tự do hơn, lại càng để tìm độc lập trong đời sống lứa đôi và tệ nạn ly dị cũng do việc các bà muốn chối bỏ quyền nội trợ tề gia, ở nhà lo cho chồng con. Là người Việt nam trọng văn hoá gia đình, chỗ của người phụ nữ chính là trong gia đình lo cho chồng con. Gia đình nghèo nhưng hạnh phúc vẫn hay hơn giàu có mà xa nhau. Cam kết đây còn là sự âu yếm săn sóc dành cho nhau. Nhiều anh chàng chỉ lo đưa tiền về cho vợ mà không “care” không săn sóc, vẫn không hiểu tại sao vợ mình ra đi với người khác. Tiền bạc không mang lại tình yêu. Người ta thường nói một túp lều tranh hai trái tim vàng, cho thấy tình yêu thương nhau là cam kết chính yếu của hôn nhân và yêu nhâu đòi sự dấn thân hi sinh cho nhau.
Hôn nhân còn là dấn thân, là việc của hai người trưởng thành. Người trưởng thành là người làm gì có suy tính kỹ lưỡng và đã làm không bao giờ bỏ và đã nói không bao giờ sai lời, đã cam kết thì giữ mãi cho đến chết. Thế hệ chúng ta được coi là văn minh cao độ nhưng hình như thiếu trưởng thành và người ta biết nhiều chuyện trên trời dưới đất nhưng nhiều khi quên chuyện chính đó là chuyện làm người trưởng thành có trách nhiệm và bổn phận, sống bằng suy tư và hữu lý. Sự dấn thân trong hôn nhân đòi hỏi can đảm, cuộc sống nào cũng có thử thách gai chông, chúng ta đã dấn thân thì phải chấp nhận, như người bước chân xuống tàu vượt biên là chấp nhận tất cả, đang ở giữa biển khơi không thể nào đòi quay trở lại. Hơn nữa là người công giáo chúng ta chấp nhận hi sinh chính là cuộc đời, những hi sinh trong cuộc sống hôn nhân sẽ là những hi sinh công giáo, đó là bảo đảm hạnh phúc và tình yêu của những người con Chúa.
03. Trước khi đi vào hôn nhân bạn phải làm gì?
Dĩ nhiên bạn phải suy nghĩ chín chắn, cầu nguyện và bàn hỏi những người khôn ngoan hay cha mẹ anh em bạn bè thân thiết. Cái hiện tượng trai thừa gái thiếu bên Mỹ làm cho nhiều bạn trai không suy nghĩ chín chắn cưới vợ như “ăn cướp” cuỗm cho nhanh kẻo người khác lấy mắt, sẽ mang đến tai hại bỏ nhau nhanh chóng. Hơn nữa chúng ta tin Chúa xếp đặt mọi sự ngay cả trong việc hôn nhân nên chúng ta cầu nguyện Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta lựa chọn được người bạn đời đúng ý Ngài, và việc hỏi cha mẹ hay những người khôn ngoan sẽ giúp ta đánh giá người bạn đời.
Thường người ta chọn bạn đời theo ba tiêu chuẩn: 1) Gia đình. 2) Tính nết. 3) Tinh thần đạo giáo.
1) Gia đình: Yếu tố gia đình rất quan trọng. Lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống. Ai cũng công nhận cha mẹ nào con sẽ như thế do đó nếu gia đình không tốt thì con cái cũng bị ảnh hưởng. Rất hiếm người tốt trong một gia đình lôi thôi. Do đó cha mẹ khi chọn vợ chồng cho con thường để ý chuyện này vì đó là bảo đảm hạnh phúc cho con. Tuy nhiên tiêu chuẩn gia đình cũng chỉ là tương đối chúng ta đừng qúa đặt nặng. Cha mẹ thường theo tiêu chuẩn gia đình danh giá hay giàu, tiêu chuẩn này hoàn toàn sai lạc, mang đến cho bao cặp hôn nhân phải đau khổ.
2) Tính nết: Các cụ ta thường nói cái nết đánh chết cái đẹp, do đó khi chọn bạn trăm năm chúng ta nên để ý tới tính nết của người phối ngẫu. Tính nết đây dựa theo cách sử sự, trưởng thành, lòng đạo đức, biết kính trên nhường dưới, đảm đang, hiền thục. Trong thời gian tìm hiểu nhau có nhiều địa phận đưa ra trắc nghiệm tâm lý giúp cho vợ chồng hiểu nhau rõ hơn, tuy nhiên khi nhìn bạn mình chúng ta cũng dễ nhận xét ra người nào tính nết tốt như thế nào.
3) Tinh thần đạo giáo: Chính là căn bản cho hôn nhân. Như trên đã nói hôn nhân là bí tích chúng ta sẽ bảo tồn hôn nhân nhờ hồng ân của Chúa, do đó gia đình đạo đức thánh thiện là bảo đảm sau cùng cho việc chọn bạn trăm năm. Chính vì lý do này mà Giáo Hội khuyến cáo chúng ta trong vấn đề hôn nhân với người không cùng tôn giáo có rất nhiều nguy hiểm cho niềm tin và mất niềm tin thì hôn nhân không bao giờ hạnh phúc cả.
04. Mục đích của hôn nhân?
Một cô bé nhà quê được hỏi: cháu lấy chồng làm gì? Cô trả lời để làm ruộng cho nhà chồng. Cô không biết hôn nhân để làm gì mà khi đi xưng tội lại còn xưng cả tội “làm tình” với chồng.
Như thế hôn nhân có mục đích bảo tồn nòi giống nhân loại. Nhiều cha mẹ lo hôn nhân cho con với mong ước có cháu nội hay ngoại. Như thế mục đích thứ nhất của hôn nhân chính là để sinh sản và giáo dục con cái. Do đó hai người lấy nhau mà không muốn có con là đi ra ngoài mục đích của hôn nhân và trong khi điều tra hôn nhân Linh Mục thường hỏi về ý định này.
Mục đích thứ hai của hôn nhân là giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Yêu thương nhau trung thành với nhau để cùng nhau chung sống trong cuộc đời. Chúa phán trong Thánh Kinh: “Ðàn ông ở một mình không tốt ta phải tạo cho nó một người giống như nó để trợ lực cho nó” Như thế Eva đã xuất hiện để làm người bạn đường giúp đỡ cho Adam trong cuộc sống. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Vợ chồng phải là người bạn thân nhất của nhau.
Mục đích thứ ba của hôn nhân là giải quyết tình dục, chữa bịnh tình dục do tội tổ tông làm cho nó thành lăng loàn, và nhiều khi đưa đến sa đoạ. Hôn nhân giúp quân bình cuộc sống sinh lý, tránh bịnh tật, cũng làm cho tâm lý hài hoà và tạo nên hạnh phúc cho đủ can đảm mang trách nhiệm sinh ra và nuôi dưỡng con cái. Ba mục đích này không cái nào hơn cái nào cho nên phải làm sao hài hoà đời sống hôn nhân để không phải chỉ lo sinh son, hay chỉ lo tìm khoái lạc, nhưng chính yếu là tạo hạnh phúc cho hai người.
05. Giáo Lý hôn nhân gồm mấy phần?
1-Giáo Lý Đạo. 2-Bí Tích hôn nhân. 3-Những điều cần tin, làm và giữ.
5.1. Giáo Lý Đạo
Khi sửa soạn hôn nhân bạn nên ôn lại về giáo lý. Sau đây là tóm tắt về giáo lý.
Ðạo là con đường dẫn lên Chúa. Chỉ có con đường chính nhất là con đường Chúa mạc khải cho ta qua Thánh Kinh, qua Chúa Giêsu, qua Giáo Hội sau khi Chúa về trời. Theo đạo chính là đến gặp Chúa chấp nhận lời Chúa mạc khải qua lý trí là tin theo những gì Chúa dậy và hội thánh truyền, qua ý chí là sống đạo theo qui luật của Chúa và qua tâm hồn là chấp nhận Chúa là tất cả trong cuộc sống của mình. Sự chấp nhận đó chính là niềm tin: Ai tin và chịu phép rửa tội thì được sống đời đời. Khi ta sống sự sống của Chúa là ta sống đời đời và cuộc sống này chỉ là sửa soạn cho cuộc sống mai sau. Tin chưa đủ mà còn phải thể hiện qua cuộc sống. Nghi lễ rửa tội cụ thể hoá niềm tin và sự chấp nhận Chúa trong cuộc sống.
Mạc khải cho ta hay Chúa là Ðấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình như con người với vũ trụ vật chất và vô hình như thiên thần. Lý chứng hay nhất cho thấy phải có Chúa chính là nhìn xem trời đất muôn vật liền biết có Chúa tạo thành. Chúa có ba ngôi Cha Con và Thánh Thần đã được mạc khải do Chúa Giêsu trong kinh thánh. Hai lần ta thấy nói về Chúa Ba Ngôi khi Chúa chịu phép rửa trên sông Hoà giang thì có tiếng phán từ trời (Ngôi Cha) nói về Chúa Giêsu (Ngôi Con) “Này là con ta” và hình chim bồ câu (Thánh Thần). Khi đi giảng đạo Chúa Giêsu nói về Ba Ngôi nhiều lần như :”Ðấng an ủi do Cha sai đến nhân danh Ta sẽ dậy các con mọi điều” và khi sai môn đệ đi giảng đạo ngài nói: “Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Mạc khải cũng cho ta hay trong ba ngôi có ngôi thứ hai ra đời làm người. Maria được truyền tin chịu thai không có sự can thiệp của người nam và Mẹ đã sinh hạ Chúa Giêsu tại Bethlehem. Mẹ sinh con mà vẫn còn đồng trinh vì Mẹ đồng trinh trọn đời: trước khi sinh, đang khi sinh và sau khi sinh Mẹ luôn đồng trinh. Do công nghiệp Con Mẹ nên khi Mẹ sinh ra Mẹ được giữ gìn không mắc tội tổ tông và vì thế Mẹ lên trời cả hồn xác, cũng như vì sinh ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mà bản tính Thiên Chúa kết hợp mật thiết với xác thể Chúa Giêsu nên cũng gọi Mẹ là Mẹ Ðức Chúa Trời. Chúa Giêsu như thế có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, trong một nhân vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa. Có ba mầu nhiệm, là điều có thực nhưng vượt qua hiểu biết của nhân loại, là Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Màu Nhiệm Chúa ra đời và màu nhiệm Chúa cứu chuộc. Ðó là ba mầu nhiệm chính, nhưng ta tin không phải vì ta hiểu nhưng dựa vào Chúa là Ðấng thông minh vô cùng, không sai lầm và cũng không đánh lừa ta. Ba Ngôi cùng một bản tính một quyền phép nên ba ngôi bằng nhau. Khi ta làm dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ta tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đồng thời muốn hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa: những gì ta nghĩ nơi đầu óc (trán) những gì ta yêu mến (nơi trái tim) và những hành động của ta (nơi hai vai).
Chúa ra đời cách đây hơn 2000 năm tại Do thái, miền trung đông, tại Bethlehem miền nam nước Do thái. Mẹ Ngài là Maria và cha muôi là Giuse thuộc hoàng gia David. Sau khi ẩn dật 30 năm, ngài giảng đạo trong 3 năm cuối cùng và chịu chết trên thập giá đời Pontius Pilatus là tổng trấn. Sau khi chết ba ngày ngài sống lại và lên trời. Ngài sẽ trở lại trần gian trong ngày tận thế để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tuy nhiên trước khi về trời ngài lập ra Hội Thánh khi chọn 12 môn đệ đầu tiên và chọn Peter là thủ lãnh. Những người tin Chúa cùng nhóm 12 lập thành Giáo hội với thủ lãnh là các tông đồ (các giám mục hiện nay) với các trưởng lão giúp việc (các linh mục hiện nay) và các thày sáu và những tông đồ giáo dân khác. Nhưng theo thánh ý của Chúa thì Peter chiếm địa vị độc đáo thủ lãnh các tông đồ và giáo hội nên người kế vị thánh Peter (Ðức Giáo Hoàng) là thủ lãnh hữu hình của Giáo hội và là cha phó của Chúa Kitô ở trần gian. Qua dòng lịch sử các Giáo Hoàng đóng trọn vai trò này và ngài có ơn không sai lầm khi phán quyết từ ngai toà thánh Phêrô (ex cathedra) về những vấn đề liên quan đến đức tin và phong hoá. Các tín hữu phải vâng lời ngài mới là tín hữu đích thực. Khi rao giảng Chúa còn lập ra bí tích như rửa tội, thêm sức, giải tội, Mình Thánh Chúa, truyền chức, hôn phối và sức dầu bịnh nhân. Các bí tích là dịp cho ta gặp Chúa để ngài ban ơn tuỳ hoàn cảnh và giai đoạn cuộc sống như trong bí tích hôn phối ngài ban ơn cho hai vợ chồng yêu thương nhau và chu toàn trách nhiệm và bổn phận của hôn nhân.
Sau khi về trời Chúa cũng ban Thánh Thần là ngôi ba tiếp tục công việc của Ngài trong Giáo hội ngài là ngôi Thiên Chúa cùng bản tính và quyền phép như hai ngôi kia, trong bí tích hôn phối cũng như trong các bí tích chính ngài hiện diện ban Chúa Giêsu hay nối kết con người trong tình yêu nhau (như trong bí tích hôn phối) vì ngài có danh hiệu là Tình Yêu của Thiên Chúa, là Sức mạnh, là Trạng Sư, là Ðấng An Ủi.
Ai tin và chịu phép rửa thì là tín hữu. Người tín hữu có bổn phận phải tuân giữ 10 giới răn của Chúa đã được Chúa ban cho dân Do thái xưa và 6 điều răn hội thánh giải thích và cụ thể hoá những gì phải làm để tuân theo 10 giới răn trên. Cách cụ thể người công giáo phải lo tránh tội lỗi vì tội nghịch lại niềm tin, tội chính là ngoan cố chống lại Thiên Chúa. Khi có tội trọng thì con người không còn hiệp thông với Chúa nữa, đánh mất sự sống siêu nhiên và xa lìa thiên đàng. Muốn trở lại họ phải thống hối tức là ghét tội vì tội phạm đến Chúa là đấng nhân lành. Kinh ăn năn tội diễn tả tâm tình thống hối đích thực: ghét tội vì yêu mến Chúa. Nếu không xưng thú tội kịp mà chết thì nguyên việc ăn năn tội cách trọn có thể giúp cho ta lên thiên đàng. Mỗi ngày trước khi đi ngủ nên có thói quen ăn năn tội cách trọn. Tuy nhiên còn phải xưng thú tội với linh mục là đại diện giáo hội. Phải xưng thú rõ ràng bao nhiêu lần, tội gì và hoàn cảnh mang đến tội. Sau khi xưng thú linh mục sẽ khuyên ta và ra việc đền tội chúng ta phải lo chu toàn ngay kẻo quên.
Ngoài ra, người công giáo còn phải lo việc phụng thờ Thiên Chúa qua việc dự và dâng thánh lễ mỗi ngày chủ nhật cũng như trong những lễ buộc và lễ trọng. Khi dự lễ cần phải hiện diện vật lý và chú ý, nhất là nên chịu lễ để việc thờ phượng Chúa nên trọn vẹn. Bài giải thích Phúc âm trong lễ là cần thiết cho việc sống đạo nên cần phải hiểu và thi hành, nếu bỏ không nghe, nghe mà không hiểu, hiểu mà không thực hành thì việc tham dự thánh lễ của mình rất thiếu sót. Ngoài ra mỗi năm có hai ngày ăn chay kiêng thịt là ngày thứ sáu tuần thánh và thứ tư lễ tro chúng ta phải chu toàn. Ăn chay là ăn một bữa no mà thôi và kiêng thịt là kiêng mọi thứ thịt trong ngày đó. Từ 18 đến hết 60 phải ăn chay và từ 14 đến hết 60 phải kiêng thịt.
Người công giáo phải siêng năng cầu nguyện. Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa, nên không phải là đọc kinh vì kinh chỉ là những mẫu giúp ta cầu nguyện với Chúa. Có ba mẫu kinh quan trọng là kinh Lạy Cha do Chúa Giêsu dậy ta cầu nguyện, kinh Kính Mừng là lời tung hô Mẹ Maria trong kinh thánh và của Giáo hội. Kinh Sáng danh là kinh các Thiên Thần hát trên thiên đàng. Muốn cầu nguyện chúng ta cần phải học hỏi, đọc kinh thánh, biết cách suy tư theo kinh thánh, nhưng trên hết là lắng nghe Chúa nói trong lòng ta. Tội lỗi, đam mê và tính xấu là những tiếng ồn ào trong linh hồn làm cho ta không nghe được lời Chúa nữa và không giúp ta cầu nguyện. Khi cầu nguyện không phải chỉ xin ơn mà ta còn cám ơn thờ lậy, dâng hiến, xin cha tha tội lỗi và xin những ơn cần cho linh hồn nữa chứ đừng chỉ xin những ơn vật chất.
Thánh Lễ Misa là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất trong đó ta thờ lạy, ca tụng, cám ơn Chúa cũng như xin ngài ban những ơn cần cho cuộc sống và linh hồn. Khi chịu các bí tích nhất là khi xưng tội rước lễ là lúc ta kết hợp cầu nguyện với Chúa, đừng làm những việc ấy với tính cách máy móc hay chiếu lệ. Muốn rước lễ ta phải sạch tội trọng, có ý ngay lành và không ăn uống gì trước một tiếng đồng hồ. Ngoài ra là người công giáo chúng ta có bổn phận truyền giáo và xây dựng hội thánh trong việc đóng góp cho nhà thờ, tuỳ theo khả năng vì quên lãng là lỗi công bình với giáo hội.
Nhưng trên hết người công giáo phải giữ công bình và bác ái. Công bình đòi ta phải trả cho người khác cái mà họ có quyền có, đó là tôn trọng quyền tư hữu. Như thế chúng ta không được lấy của ai, làm thiệt hại của ai, gian lận bóc lột người khác và quên lãng để cho anh em phải túng đói.
Chúa còn dậy ta phải yêu thương người khác như chính mình nghĩa là phải yêu thương như yêu mình. Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, nguyên tắc này đã được Chúa nói đến cách tích cực hơn trong tin mừng: “Hãy làm cho người khác điều con muốn làm cho con.” Yêu thương theo tinh thần công giáo là yêu như Chúa, yêu vì Chúa, yêu mà nâng cao nhân vị con người, yêu mà hi sinh mạng sống, yêu mà muốn tốt, nói tốt và làm tốt cho người khác, yêu mà tha thứ cho cả kẻ thù, yêu mến kẻ thù và nhìn mọi người như là Chúa Giêsu đang hiện diện. Muốn thi hành điều này cần cầu nguyện, năng chịu bí tích nhất là xa lánh tội lỗi.
Mười giới răn Chúa tóm lại trong hai điều: bổn phận với Chúa và bổn phận với tha nhân.
Với Chúa phải yêu mến ngài hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực trong việc dự lễ ngày Chúa nhật, cũng phải kính trọng Thiên Chúa, đừng kêu tên ngài vô ích, nói lộng ngôn. Không được thờ ma quỉ khi tin dị đoan bói toán theo kiểu tin những điều vô lý. Còn việc tôn kính chứ không phải thờ lạy ông bà như thờ Chúa thì không cấm đoán mà còn khuyến khích. Phải phân biệt sự tôn thờ và tôn kính, tôn thờ chỉ dành cho Thiên Chúa, và tôn kính dành cho ông bà cha mẹ những người trên của ta.
Với tha nhân Chúa đòi ta phải kính trọng có hiếu với cha mẹ, kính trọng thân xác, giữ sức khoẻ đừng hạ thấp nó, giữ mạng sống và cơ thể của mình cũng như của tha nhân, kính trọng bản năng tình dục và của cải, lại phải thành thực trong lời nói, tôn trọng danh giá kẻ khác cũng như biết sử dụng tiền bạc cho đúng ý Chúa. Tiền bạc là tên đầy tớ có ích và ông chủ độc tài. Hãy dùng tiền của mua thiên đàng khi đóng góp, bố thí và tiêu pha cho hợp lý.
Tình dục là bản năng cần phải sử dụng với lý trí vì mục đích của nó cao cả nên không được coi nó là mục đích của hôn nhân. Nó chỉ là phương tiện để bày tỏ tình yêu chứ không phải mục đích. Như thế tình dục chỉ được sử dụng để sinh sản, vì tình yêu vợ chồng, còn sử dụng cho những trường hợp khác là dùng sai ý Chúa là có tội. Mọi cử chỉ âu yếm nhau, nếu là trong tình yêu vợ chồng, đều hợp pháp còn ngoài ra đều sai lầm, tội lỗi. Những việc sử dụng tình dục trái thiên nhiên như thủ dâm, với người cùng phái, đều là trọng tội theo lời lên án của Kinh Thánh, tức là theo phán quyết của Chúa. Những tư tưởng tội lỗi vì sẽ đưa đến tội lỗi và cả những ý định tội lỗi, cũng là tội phạm, như lời Chúa phán: “Nhìn người nữ mà ước ao phạm tội với nó cũng là phạm tội ngoại tình rồi”.
Vấn đề thành thật trong lời nói cũng rất quan trọng. Chúa phán: có có, không không, thêm bớt là do ma quỉ. Không bao giờ được phép nói dối dù nói có hại hay không có hại, nói để bảo vệ mình hay người khác.. tóm lại không bao giờ được phép nói dối.
Về công bằng nếu ta lấy hay làm thiệt hại hay mắc nợ ai điều gì chúng ta phải trả vì không trả bây giờ sẽ phải trả sau này. Như thế khi đi xưng tội này, dù cha không nói gì, phải hiểu ngầm là ta phải trả đền nếu không biết cách trả hay trả cho ai, thì có thể hỏi linh mục.
Các tội lỗi có 7 nguyên nhân thường kêu là bảy mối tội đầu là kiêu ngạo, hà tiện, tà dâm, mê ăn, ghen ghét, lười biếng, hờn giận. Muốn diệt tội chúng ta phải tiêu diệt những nguyên nhân tội trên. Ta xét xem mình có nguyên nhân tội nào thì lo diệt nguyên nhân tội đó.
Ðể xét tội Chúa cho ta lương tâm là phán đoán thực hành tính cách đạo đức của những hành vi nhân linh. Lương tâm có thể quá rộng rãi hay chật hẹp, phải huấn luyện cho mình có lương tâm chính đáng, ngay thẳng, lương tâm tốt để có thể xét tội hay việc lành. Tội chỉ là tội khi có luật cấm, biết rõ có luật cấm lại còn ngoan cố và trong tình trạng tự do không bị áp lực bên ngoài hay nội tâm để phạm tội. Ðó mới là có tội thôi, còn tội nặng nhẹ tuỳ theo chất liệu, hoàn cảnh và những hậu quả của tội ấy.
Những phương pháp để tránh tội là đừng bao giờ ở nhưng, say sưa, lại phải năng cầu nguyện và chịu các bí tích.
Là con người ta có thân xác và linh hồn, nên nhớ thân xác cao quí và sau này sẽ chung hạnh phúc với linh hồn trên thiên đàng chúng ta phải kính trọng thân xác khi ăn mặc nết na, săn sóc sức khoẻ, nuôi nấng bằng những tư tưởng lành mạnh và đừng phí phạm sức khoẻ trong rượu chè cờ bạc hay lao động quá sức. Việc nghỉ ngơi trong ngày chủ nhật cũng là một bổn phận nên giáo hội dậy ta kiêng việc nặng nhọc trong ngày của Chúa.
Linh hồn ta là hình ảnh Chúa nên bất tử. Khi chết linh hồn ra khỏi xác đến trước toà Chúa để nghe phán xét về cuộc đời mình. Nếu đã chối bỏ Chúa thì việc đó được chính thức hoá trong hoả ngục không bao giờ thay đổi tình trạng. Nếu chỉ là những yếu đuối Chúa cho thời gian thanh tẩy trong luyện ngục và khi thanh thoát hoàn toàn sẽ lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Chúng ta có thể cầu cho những người trong luyện ngục bằng việc xin lễ hay cầu nguyện, làm các việc lành để cầu cho họ. Còn ai thánh thiện hoàn toàn sẽ lên thiên đàng. Lâu lâu giáo hội dùng quyền bất khả ngộ tuyên bố người nào chắc chắn lên thiên đàng thì đó là ghi tên người đó vào sổ bộ (canon) của các thánh và những vị đó được cả giáo hội tôn kính sau khi Ðức Giáo Hoàng phong thánh (canonisation) cho các ngài.
Bốn sự sau là chết, thiên đàng hoả ngục, phán xét chung hay riêng. Phán xét chung là khi tận thế, mọi người đều chết, lúc đó Chúa sẽ phán xét chung và chia thế giới thành hai: nơi hạnh phúc đời đời và chốn khổ đau đời đời. Những điều này đã được nói tới trong thánh kinh do Chúa mạc khải.
Việc lành chính là những hành động đạo đức làm trong tình trạng không mắc tội trọng. Muốn thế cần phải có thiện ý và những phương tiện dùng phải tốt hay ít là dửng dưng, còn nếu phương pháp xấu thì làm cho việc ra xấu. Người công giáo phải lo làm việc lành và việc tránh tội cũng là một việc lành tuy nhiên bác ái yêu thương chính là việc lành quan trọng và đáng kể nhất. Việc lành cũng là tập các nhân đức là những tập quán tốt do ta tập được đến chỗ thành thói quen tốt. Cũng có những nhân đức Chúa ban cho ta, cho ta thói quen yêu mến cậy trông vào ngài. Phải làm cho những nhân đức đó lớn lên bằng bác ái và cầu nguyện nhiều.
5.2. Giáo Lý hôn nhân
Muốn chịu bí tích hôn phối cần những điều kiện sau:
1) Hai người đã chịu phép rửa tội. Một bên Công Giáo một bên không phải có phép chuẩn của bản quyền địa phương hay vị được uỷ quyền. Muốn có phép chuẩn này bên không Công Giáo phải được thông báo về lời cam kết của bên Công Giáo sẽ rửa tội và giáo dục con theo đạo Công Giáo và bên kia phải kính trọng và giúp cho bên có đạo giữ được lời cam kết.
2) Phải đủ tuổi theo giáo luật nam 16 nữ 14 nhưng nên theo luật pháp quốc gia, không nên lập gia đình trước năm 18 tuổi.
3) Tự do ưng thuận lấy nhau không lầm lẫn hay bị đe dọa nặng nề, vì thế cha mẹ không được ép duyên con cái trong việc hôn nhân.
4) Tuyên bố lấy nhau theo nghi thức Giáo Hội, trước mặt Linh Mục cùng hai người chứng.
5) Không mắc ngăn trở nào về Bí Tích như họ hàng không được lấy nhau từ ba đời trở lên, họ thân quyến không được lấy nhau từ hai đời trở lên, họ thiêng liêng như con đỡ đầu không được lấy bố mẹ đỡ đầu. Khi điều tra Linh Mục sẽ cho biết bạn có ngăn trở nào và giúp bạn giải quyết nên phải làm giấy điều tra trước khi làm hôn phối. Linh Mục có thẩm quyền là Linh Mục đàng trai hay đàng gái theo lời xin và đàng trai hay gái phải cư ngụ và ghi danh vào cộng đoàn không quá 6 tháng.
5.3. Nghi thức hôn nhân là gì?
Ðôi tân hôn trước mặt Linh Mục và hai nhân chứng tuyên bố ưng thuận lấy nhau. Chính đôi bạn là kẻ cử hành Bí Tích hôn nhân khi trao đổi sự ưng thuận trước mặt linh mục. Linh Mục và hai người chứng đại diện cho Giáo Hội chứng kiến hôn ước. Hai người bắt tay nhau chỉ sự hiến dâng trọn vẹn cho nhau đồng thời nói lên sự ưng thuận làm vợ làm chồng trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội. Chiếc nhẫn là biểu hiệu tình yêu và lòng trung thành với nhau trong mọi trường hợp và mọi ngày trong cuộc sống vợ chồng, cũng là bảo vật vợ chồng tặng nhau để ghi nhớ ngày trọng đại. Tình yêu vợ chồng giống như tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội cũng như cộng tác với Chúa trong công cuộc sáng tạo.
06. Bổn phận vợ chồng là gì?
Bổn phận vợ chồng là yêu nhau, trung thành hoà thuận và giúp nhau. Họ phải yêu nhau vì cả hai nên một: kêu nhau “mình ơi” vì cả hai là xác thịt của nhau. Họ yêu nhau trong sạch thánh thiện khi làm theo ý Chúa và mục đích của hôn nhân như Chúa Giêsu yêu Giáo Hội. Yêu nhau thực tình không giả dối và trong mọi trường hợp. Hai người còn phải hoà thuận cùng nhau gánh vác nhiệm vụ gia đình. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Muốn thể vợ chồng phải nhịn nhau: một nhịn chín lành. “Chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười ngỏn nghẻn hỏi anh giận gì”. Họ phải bàn hỏi nhau khi toan tính công việc hệ trọng và tiền bạc phải để chung tiêu dùng có sổ sách và có qui hoạch và ưu tiên: tuỳ theo nhu cầu, hữu ích hay giải trí. Hai người còn phải trung thành với nhau vì khế ước hôn nhân như lời thánh Phaolô: Thân xác vợ không còn thuộc quyền vợ, mà thuộc quyền chồng. Cũng vậy thân xác chồng không còn thuộc quyền chồng mà thuộc quyền vợ.” (1 Cor 7:4). Do đó khi phạm tội ngoại tình thì phạm hai tội lỗi trong sạch và lỗi đức công bình. Vợ chồng còn phải giúp nhau theo như Chúa phán: “Ðàn ông ở một mình không tốt, hãy ban cho nó một người bạn để giúp nhau. “(Genesis 2:18). Họ phải giúp nhau nên thánh, phần hồn phần xác, tận tình thành thực vì Chúa và vì tình nghĩa vợ chồng nhất là khi yếu đau.
07. Bản tính hôn nhân là gì?
Là Bí Tích Chúa lập khi dự tiệc cưới Cana và khi tuyên bố: “Sự gì Chúa nối kết con người không được phân rẽ” buộc nhất phu nhất phụ và vĩnh hôn có nghĩa không bao giờ được ly dị.
Tại sao không được ly dị? Vì hôn nhân là Bí Tích, là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bảo đảm hạnh phúc gia đình, giúp cho việc dậy con cái hữu hiệu. Nhưng trên hết là vì Chúa đã nối kết hôn nhân và lời hứa của hai vợ chồng là hứa trước mặt Chúa không phải chuyện tầm thường.
08. Bổn phận cha mẹ chính yếu ở chỗ nào?
Dậy con về phương diện trí dục, đức dục và thể dục nhưng quan trọng hơn hết là giúp con sống đạo để đựơc hạnh phúc đời đời. Cho con ăn uống đàng hoàng giữ gìn sức khoẻ vệ sinh, tránh rượu chè hút xách chơi bời bê tha. Tránh bạn bè xấu. Dậy chúng biết nghề nghiệp làm ăn cho học tập tuỳ theo khuynh hướng, tránh học đường thiếu đứng đắn, nhất là dậy con biết sợ tội, yêu mến Chúa, biết những điều cần trong đạo, làm việc lành, tạo lương tâm đúng đắn, và bác ái yêu thương. Nhưng trên hết cần yêu con thực tình và làm gương sáng cho con cái.
09. Bổn phận con cái là gì?
Là yêu mến tôn kính vâng lời và giúp đỡ cha mẹ. Giữ trọn đạo hiếu theo tinh thần Việt Nam chính là làm tròn bổn phận con cái.
10. Nên lưu ý những điều sau đây:
1) Việc vợ chồng ăn ở với nhau rất quan trọng, để bảo đảm hôn nhân hạnh phúc nên nếu không có lý do mà từ chối thì mắc tội.
2) Vợ chồng được hạn chế sinh sản theo phương pháp của Giáo Hội: những phương pháp ấy là Ogino-Knaus, chỉ ăn ở với nhau theo những chu kỳ không thể thụ thai được,
– Phương pháp nhiệt độ dựa trên sự kiện khi có thể có thai thì nhiệt độ trong người dâng cao chút ít,
– Phương pháp Billings tuỳ theo chất nhờn nhiều ít nơi cơ thể phụ nữ, cũng như đất ẩm mới gieo giống được
– Phương pháp Doyle thử giấy màu gọi là Test Tape bỏ vào tử cung nếu tan màu hồng là có thể thụ thai.
Tuy nhiên quan trọng nhất là tinh thần trách nhiệm và ý thức hôn nhân là hy sinh theo luật của Chúa cũng như tuân theo lương tâm ngay thẳng của mình.
Riêng về việc phá thai luôn có tội trọng, lại còn bị vạ tuyệt thông nghĩa là không được chịu các Bí Tích. Tuy nhiên việc phá thai chỉ mắc vạ khi phá thai thành sự và biết rõ có vạ.
11. Bàn về tình yêu và hôn nhân
Tình yêu chỉ có nơi con người vì chỉ con người có lý trí. Tuy nhiên tình yêu được tuỳ tùng bởi nhiều yếu tố vật chất như tình dục, nhan sắc sự tài giỏi, và những yếu tố bên ngoài khác. Trong hôn nhân người ta phải lấy nhau vì tình mới có hạnh phúc còn lấy nhau vì tình dục vì sắc, tài, vì tiền bạc hay những lý do khác dễ đưa đến gẫy đổ tình yêu. Nhưng tình yêu hệ tại chỗ nào? Hệ tại hai người săn sóc, lưu ý đến đời nhau và muốn tốt, nói tốt và làm tốt cho người mình yêu, cũng không ngần ngại nói thực với nhau và nhất là chấp nhận lời sửa lỗi của nhau. Tình yêu vợ chồng dựa trên tình bạn đích thực của hai người bạn nghĩa là hai người phải thông cảm, tin nhau mới yêu nhau được. Tuy nhiên tình yêu là hành động thánh thiện theo ý nghĩa nó là phản ánh tình yêu Thiên Chúa, là hình ảnh Chúa Ba Ngôi và thực hành lời Chúa Giêsu: “Không ai yêu bạn bằng kẻ hiến mạng sống vì bạn”. Thước đo tình yêu chính là chỗ dám chết cho người mình yêu. Tình yêu không phải là tình dục cũng không phải là cảm xúc nhất thời, càng không phải là tiếng sét ái tình nhiều khi là nỗi đau đớn phải xa nhau, phải hy sinh cho nhau, phải cao thượng với nhau, phải thánh thiện theo đúng ý nghĩa của tôn giáo. Trong hôn nhân bền chặt luôn có yêu thương đích thực theo lời thánh Phaolô: Caritas non ficta, (tình yêu không giả dối).
12. Làm sao cho hôn nhân hạnh phúc?
Không thể nào đưa ra những tiêu chuẩn chính xác tuy nhiên muốn cho hôn nhân hạnh phúc chúng ta cần để ý đến những yếu tố sau đây:
– Yếu tố xác thịt: Người đàn ông thích tình dục, người phụ nữ thích tình cảm, do đó chỉ có yêu thương khi thực sự hai người tạo hạnh phúc cho nhau. Hôn nhân chỉ mang lại hạnh phúc một chiều mang dấu vết của đổ vỡ ngay từ đầu.
– Yếu tố gia đình do cha mẹ hay họ hàng. Việc hôn nhân là việc riêng tư của hai vợ chồng và cuộc sống của họ cũng thể, đừng để cha mẹ hay họ hàng có mặt cả trong giường ngủ của họ.
– Yếu tố tiền bạc: đừng để tiền bạc giá trị hơn vợ hay chồng.
– Yếu tố ý thức hệ: Đồng sàng dị mộng sẽ mang đến tan vỡ. Do đó Giáo Hội luôn khuyên không nên có hôn nhân khác đạo hay những hôn nhân mà hai người cách nhau quá về tuổi tác hay hôn nhân do áp lực của bào thai. Vợ chồng có cùng tư tưởng sẽ dễ hoà hợp hơn vì cái làm cho người ta xa nhau, không phải là thân xác mà chính là tư tưởng.
– Yếu tố tính tình: Vợ chồng phải bổ túc cho nhau và người đàn ông phải là đàn ông, đàn bà phải là đàn bà, đổi tính không mang lại hạnh phúc. Người đàn ông sống bằng lý trí, đàn bà trực giác, đàn ông tổng quát, các bà chi tiết, đàn ông dục tình đàn bà tình cảm, đàn ông lò điện đàn bà lò than, đàn ông thích dịu dàng đàn bà thích mạnh mẽ.
– Yếu tố giáo dục: Hai người phải ngang nhau một trong hai trội hơn người trên sẽ không tạo hạnh phúc.
Tóm lại yêu là bài học phải học suốt đời, phải lo hâm nóng mỗi ngày, phải tranh đấu và nâng niu trân trọng, phải nhờ ơn Chúa làm cho lớn lên, phải hy sinh và chịu đựng lẫn nhau, nhưng trên hết yêu chính là chết một ít mỗi ngày để cái ta không còn mà chỉ còn cái chúng ta. Kết hợp thân xác chỉ là phương tiện đem đến kết hợp hai tâm hồn.
VIỆC KẾT HÔN VÀ VẤN ĐỀ TỰ DO TÍN NGƯỠNG
Tại sao người lương muốn kết hôn với người bạn trai hay gái Công Giáo đều phải cải đạo rồi mới được kết hôn tại nhà thờ ? Phải chăng như vậy là vi phạm quyền tự do tín ngưỡng?
GIẢI ĐÁP:
A. TRÌNH BÀY:
Những đám cưới mà hai người nam nữ cùng theo đạo Công Giáo thì không có vần đề. Tuy nhiên những đám cưới mà cô dâu chú rể khác tín ngưỡng. Chẳng hạn: người Công Giáo lấy người Phật Giáo, đạo ông bà, người không tôn giáo… thì ngoài các thủ tục theo phong tục tập quán giữa hai gia đình đàng trai đàng gái và thủ tục làm giấy công nhận kết hôn của chính quyền, giáo luật còn đòi đôi thanh niên nam nữ phải học giáo lý hôn nhân như điều kiện bắt buộc để được cử hành hôn phối tại nhà thờ.
Vậy tại sao Giáo Hội Công Giáo lại buộc đôi dự hôn phải học giáo lý dù một bên không theo Công Giáo? Giáo Hội có buộc người lương phải cải đạo để theo đạo Công Giáo trước khi cử hành hôn lễ tại nhà thờ không?
1) Việc buộc học giáo lý hôn nhân trước khi kết hôn tại nhà thờ:
a) Chứng chỉ giáo lý hôn nhân là điều kiện để được kết hôn tại nhà thờ:
Giáo Luật đòi các đôi thanh niên nam nữ cùng đạo Công Giáo hoặc khác đạo (Công Giáo và không Công Giáo) muốn cử hành hôn lễ tại nhà thờ thì ngoài các giấy tờ liên quan khác, còn phải xuất trình chứng chỉ giáo lý hôn phối do linh mục chính xứ hay giám đốc trung tâm giáo lý hôn nhân có uy tín cấp.
Muốn được cấp giấy chứng chỉ giáo lý hôn phối, học viên phải làm đơn đăng ký và tham dự các tiết học. Thời gian mỗi khóa giáo lý hôn nhân kéo dài từ ba đến sáu tháng tùy theo số tiết học nhiều ít mỗi tuần. Cuối cùng học viên còn phải làm bài thi đủ điểm đậu vào cuối khóa học.
- Lý do phải học giáo lý hôn nhân:
Trước khi làm việc gì, muốn đạt kết quả thì người thực hiện phải có đủ kiến thức và trình độ chuyên môn về công việc sắp làm. Chẳng hạn: Một người muốn lái xe hơi mà thiếu kiến thức luật giao thông và thiếu kinh nghiệm thực tế lái xe sẽ có nguy cơ gây ra tai nạn hoặc vi phạm luật đi đường. Cũng vậy muôn xây dựng được một gia đình hòa hợp hạnh phúc, giáo luật đòi các đôi dự hôn phải xuất trình giấy chứng chỉ giáo lý hôn nhân cũng là điều đúng đắn hợp lý.
- Nội dung giáo lý hôn nhân:
Nội dung khóa giáo lý hôn nhân gồm các đề tài liên quan đến kiến thức cơ bản về giáo lý công giáo và việc thực hành đức tin trong đời sống hôn nhân gia đình, về các phương cách duy trì và thăng tiến tình yêu vợ chồng, về tình dục và sinh con có trách nhiệm, về việc “nuôi con khỏe dạy con ngoan” và về hôn lễ mà đôi tân hôn sẽ cử hành tại nhà thờ…
2) Việc phải cải đạo để theo công giáo khi kết hôn với người công giáo:
a) Ý muốn của các phụ huynh công giáo: Hầu như cha mẹ công giáo nào khi con cái tới tuổi trưởng thành cũng đều muốn cho chúng chọn được một người chồng hay người vợ cùng đạo để bảo toàn đức tin công giáo truyền thống của gia đình.
b) Về quyền tự do tín ngưỡng: Một người lương khi quen biết với bạn trai hay gái công giáo vẫn có quyền tự do theo hay không theo đạo công giáo: Nếu người lương không có đức tin, hoặc vì hoàn cảnh là con trai trưởng, con trai duy nhất trong gia đình phải lo cúng giỗ ông bà cha mẹ qua đời… thì không nên kết hôn với người công giáo, nhưng nên chọn kết hôn với người đồng tín ngưỡng.
c) Các giải pháp người lương có thể tự do chọn khi kết hôn với người công giáo: Nếu đã quen biết với người bạn công giáo lâu ngày và hai người đã có tình yêu thương sâu đậm không thể chia tay, hoặc đã lỡ có thai với nhau… thì người lương có thể chọn một trong các giải pháp sau:
Một là thuyết phục người bạn công giáo tiến hành đám cưới nhưng không vào nhà thờ.
Hai là ý thức đây là duyên phận trời định nên cần đăng ký học khóa giáo lý dự tòng và hôn nhân để dễ dàng sống hòa hợp hạnh phúc lâu dài với người công giáo về sau.
Ba là khi có lý do chính đáng, đôi dự hôn sẽ xin phép chuẩn hôn phối khác đạo với lời hứa sẽ tôn trọng đức tin của nhau và đồng ý cho con cái được giáo dục theo đức tin công giáo.
d) Trình tự theo học khóa giáo lý dự tòng: Việc xin chịu phép rửa tội để gia nhập đạo công giáo không dễ dàng, mà đòi người lương phải có đức tin thể hiện qua bốn bước như sau:
+ Một là đôi dự hôn sẽ đến xin linh mục chính xứ bên nam nữ công giáo hướng dẫn thủ tục xin theo đạo công giáo.
+ Hai là phải thực tập sống đức tin bằng việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hằng tuần tại nhà thờ và tập thói quen cầu nguyện sớm tối và trước khi dùng bữa.
+ Ba là đăng ký theo học khóa giáo lý dự tòng và chăm chỉ nghe giảng bài và thảo luận các đề tài, học thuộc câu Lời Chúa và dâng lời nguyện tự phát cuối mỗi bài. Ngoài ra còn phải học thuộc một số kinh cần để cùng đọc kinh chung gia đình sau này.
+ Bốn là vào lúc cuối khóa còn phải viết đơn xin chịu các bí tích khai tâm là Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể để được gia nhập đạo, tham dự tĩnh tâm và tập lễ nghi rửa tội nữa.
e) Về sự tự nguyện: Việc học giáo lý để theo đạo là một hành vi tự nguyện chứ không bị ép buộc. Nếu một người bị ép buộc theo đạo mà không có đức tin và không thực tâm theo thì phép thánh tẩy sẽ không thành sự. Do đó nếu sau một thời gian học giáo lý mà học viên không thực lòng muốn theo, thể hiẹn qua việc không đến nhà thờ dự thánh lễ Chúa Nhật, không cầu nguyện sớm tối, không thuộc các câu Lời Chúa quan trọng và các kinh thường đọc… thì không nên viết đơn xin gia nhập đạo, để tránh tình trạng chịu phép bí tích không thành, mà còn mắc tội phạm sự thánh nữa. Người ta cũng thường phê phán những người theo đạo thiếu thành tâm này như sau: “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ! ”
g) Về phép chuẩn hôn phối khác đạo: Trường hợp một người lương muốn kết hôn với người công giáo mà vì hoàn cảnh không thuận lợi. Chẳng hạn: là con trai trưởng phải lo cúng giỗ ông bà cha mẹ, hoặc đã lỡ ăn ở với nhau mang bầu mà không đủ thời gian học giáo lý dự tòng để theo đạo, thì tùy theo sự khôn ngoan và đức bác ái mục tử, linh mục chính xứ sẽ cho đôi dự hôn tiến hành thủ tục xin phép chuẩn hôn phối khác đạo, nghĩa là hai người được phép kết hôn tại nhà thờ theo thỏa thuận “đạo ai nấy giữ”.
Đôi hôn phối khác đạo phải làm đơn xin cử hành phép chuẩn hôn phối khác đạo gửi về tòa giám mục với lời cam kết: Hai bên hứa sẽ tôn trọng tự do tín ngưỡng thể hiện qua việc tránh xúc phạm đến đức tin của nhau, đồng ý cho bên công giáo quyền lo cho các con trai con gái sẽ sinh ra được chịu phép thánh tẩy sau khi sinh một tháng và được học các lớp giáo lý theo lứa tuổi. Bên công giáo thành tâm sống đạo để làm chứng cho Chúa, hầu sau này khi có điều kiện người chồng hay vợ bên lương sẽ gia nhập đạo công giáo để gia đình được hòa hợp trọn vẹn.
h) Về thủ tục giấy tờ khi xin kết hôn theo giáo luật: Cũng như muốn xin việc làm tại cơ quan hay xí nghiệp, ứng viên phải có đủ giấy tờ theo yêu cầu của nhà tuyển dụng, thì việc người lương muốn kết hôn với người công giáo, cũng phải nộp đủ các loại giấy tờ như sau:
+ Về phạm vi đời: Phải nộp giấy công nhận kết hôn do chính quyền dịa phương cấp, giấy chứng nhận chồng hay vợ trươc đã chết, giấy tòa án chứng nhận hai vợ chồng trước đã ly hôn, giấy xác nhận của người chồng hay vợ lương trước đây không muốn sông chung với người chồng hay vợ theo đạo công giáo để đủ điều kiện hưởng đặc ân thánh Phao-lô.
+ Về phạm vi đạo: phải có giấy chứng chỉ giáo lý hôn nhân của 2 người dự hôn, giấy giới thiệu của LM chánh xứ xác nhận người này là giáo dân trong xứ đã chịu phép rửa tội, Thêm sức và còn độc thân; Giấy chứng rửa tội do nơi đã ban phép rửa tội mới cấp không quá sáu tháng, nhằm truy gốc về tình trạng độc thân; Giấy đã rao hôn phối không có trở ngại kết hôn; Giấy tự khai điều tra nhân thân…
Tóm lai: Việc người lương xin theo đạo công giáo để kết hôn với người công giáo hay xin cử hành nghi thức phép chuẩn hôn phối khác đạo tai nhà thờ (với nhưng điều kiện kèm theo) là một việc làm hoàn toàn tự giác và tự nguyện chứ không bị ai ép buộc.
B. PHÚT HỒI TÂM:
1) LỜI CHÚA : Thánh Phao-lô dạy người chồng hay vợ công giáo phải ứng xử thế nào nếu gặp trường hợp người chồng hay vợ bên lương không theo đạo cấm cản: “Nếu anh em nào có vợ ngoại mà người đó thuận ở với mình, thì chớ rẫy vợ. Và người vợ nào có chồng ngoại mà người đó thuận ở với mình, thì đừng bỏ chồng. Vì chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1 Cr 7, 12-14).
2) LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa Cha giàu lòng từ bi thương xót. Xin giúp các gia đình tín hữu chúng con sống hòa hợp hạnh phúc theo ý Chúa muốn. Xin củng cố tình yêu vẫn còn nhiều giới hạn và sai sót của chúng con. Đặc biệt xin Chúa thương những đôi vợ chồng không cùng đức tin. Xin đổ ơn Thánh Thần giúp họ vượt qua những khác biệt về đức tin, để nên bạn trăm năm chia ngọt sẻ bùi với nhau, và sẵn sàng giúp nhau sông tình con thảo với Cha và tình huynh đệ trong Hội thánh.- Amen.
PHỤ CHÚ:
Hội Thánh Công Giáo công nhận hai loại hôn nhân: Một là hôn nhân tự nhiên là sự kết hôn giữa hai người nam nữ kết hôn hợp pháp. Hai là bí tích Hôn phối giữa hai người nam nữ đều là tín hữu công giáo. Bí tích hôn phối là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ đủ điều kiện kết hôn trước sự chứng kiến và chúc phúc của thừa tác viên của Hội Thánh có quyền chứng hôn. Về bản chất, sự kết hợp này là duy nhất và vĩnh viễn. Giáo luật Công giáo còn có các quy định cụ thể về việc cử hành bí tích Hôn phối từ điều 1055 đến điều 1065. Vấn đề sinh sản và giáo dục con cái được coi là một yếu tố quan trọng đi kèm trong hôn nhân Công giáo.
1. VỀ HÔN NHÂN CÔNG GIÁO:
1) Quan niệm: Giáo hội Công giáo xác định hôn nhân công giáo là một "bí tích" do Đức Giê-su đã thiết lập trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na và trong bữa tiệc đó Người đã làm dấu lạ cho nước lã trở thành rượu nho để giúp đôi tân hôn. Về sau Đức Giê-su đã tuyên bố về tính “bất khả phân ly” của hôn nhân và cấm sự ly hôn khi trả lời các người Pha-ri-sêu như sau: “Các ông không đọc thấy điều này sao: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,4-6). Như vậy, hôn nhân công giáo mang tính thánh thiêng. Chính việc nói lời ưng thuận của đôi tân hôn trước sự chứng kiến và chúc phúc của thừa tác viên Hội Thánh là linh mục hay phó tế và hai nhân chứng, làm cho lời kết ước giữa hai người nam nữ trở thành giao ước vĩnh cửu giữa Đức Giê-su và Hội Thánh. Người Công giáo tin rằng khi cử hành bí tích hôn nhân, tình yêu của đôi bạn sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn giúp hai người chung thủy với nhau suốt đời, trong một giao ước do Chúa Giê-su đã thiết lập. Trong bí tích hôn phối, chính đôi tân hôn cử hành kết ước chứ không phải linh mục hay phó tế chứng hôn. Linh mục hay phó tế chỉ là người thay mặt Thiên Chúa và Hội Thánh đứng ra chứng hôn để làm cho việc kết ước giữa hai người thành sự và sau đó chúc phúc cho họ, để giúp họ chu toàn lời thề hứa chung thủy và sống trăm năm hạnh phúc với nhau.
2) Đặc tính: Hôn nhân Công giáo có hai đặc tính là độc hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn (tồn tại vĩnh viễn), dựa vào lời Chúa Giê-su: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Ngoài ra, Hội thánh Công giáo tuy rất thông cảm với tình trạng của những người ái nam ái nữ, nhưng không công nhận hôn nhân giữa hai người đồng giới nghĩa là nam kết hôn với nam và nữ kết hôn với nữ, vi hôn nhân này không phù hợp với lời Đức Chúa phán khi thiết lập hôn nhân tự nhiên.
3) Ý nghĩa: Do mang đặc tính như vậy nên người Công giáo tin rằng đôi thanh niên nam nữ lãnh nhận bí tích hôn nhân có bổn phận trung thành với nhau mãi mãi. Giáo hội Công giáo quan niệm rằng: con người được sinh ra là do Thiên Chúa, vì thế, hôn nhân cũng là sự cộng tác vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa qua việc sinh sản.
Tuy nhiên, cuộc sáng tạo của Thiên Chúa ngoài việc sinh sản còn bao gồm các yếu tố của một cuộc sống hạnh phúc như: chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, cải thiện chất lượng sống cho con người… nên phải sinh con có trách nhiệm, nghĩa là không phải chỉ biết sinh nhiều về số lượng, mà còn phải quan tâm đến sức khỏe của con cái và khả năng nuôi dạy của cha mẹ, hầu sau này chúng sẽ trở thành những công dân tốt trong xã hội và những tín hữu đạo hạnh của Thiên Chúa.
Giáo hội Công giáo không công nhận những đôi hôn phối chỉ kết hôn dân sự (làm giấy công nhận kết hôn) mà không cử hành nghi thức hôn phối theo phép đạo tại nhà thờ. Giáo luật khẳng định: “Giữa những người tín hữu đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích hôn phối. Những người công giáo chưa chịu bí tích Thêm Sức, phải lo lãnh nhận bí tích ấy trước lễ hôn phối hết sức có thể, nếu không gặp sự khó khăn trầm trọng” (x. GL điều 1055 và 1065).
2. ĐIỀU KIỆN CỦA BÍ TÍCH HÔN NHÂN:
Hôn nhân công giáo phải hội đủ những điều kiện như sau:
1) Về sự tự do:
Tự do tinh thần: tự do kết hôn, không chịu sức ép nào từ bên ngoài (gia đình, người thân, các khoản khế ước, vay nợ...). (Giáo Luật, điều 1057).
Tự do dân sự: không bị ràng buộc về mặt pháp lý hôn nhân dân sự (như đang có hôn thú với người khác) và pháp lý về độ tuổi dân sự theo luật pháp quốc gia (ở Việt Nam, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên).
2) Về đức tin tôn giáo:
Người nam và người nữ phải đồng đạo nghĩa là đã chịu phép thánh tẩy (rửa tội) theo nghi thức Công giáo, có giấy chứng nhận của nhà thờ nơi đã được chịu phép rửa tội.
Người nam và người nữ chưa lãnh nhận bí tích hôn phối lần nào, hoặc không còn bị ràng buộc bởi một bí tích hôn phối trước đó . Chẳng hạn khi chồng hay vợ mình đã qua đời tự nhiên.
Trước hôn lễ, đôi dự hôn phải học khóa giáo lý hôn phối và được cấp giấy chứng nhận. Lớp giáo lý hôn nhân được tổ chức tại nhà thờ giáo xứ hay tại một trung tâm giáo lý có uy tín, để giúp cho người chuẩn bị kết hôn những kiến thức cần biết về đức tin, kỹ năng sống chung trong gia đình, sinh sản và giáo dục con cái.
Không bị vướng vào một hay nhiều "ngăn trở" theo Giáo Luật.
Người tín hữu Công giáo phải cử hành hôn lễ theo nghi thức Công giáo. Nếu ai cử hành nghi thức không Công giáo sẽ bị chế tài tôn giáo, và những người tham dự vào nghi thức đó cũng chịu hình phạt tương tự.
3) Vấn đề tính dục, sinh sản:
Giáo Luật, điều 1061: Hôn phối hữu hiệu giữa những người đã chịu phép rửa tội được gọi là thành nhận khi được cử hành theo nghi thức kết hôn tại nhà thờ; hôn phối được gọi là hoàn hợp khi đôi bạn đã được thành nhận mà có sự giao hợp với nhau phù hợp với nhân tính. Sự giao hợp là hành động hướng đến việc sinh sản con cái, tức là một mục tiêu tự nhiên của hôn nhân, và do hành động ấy, đôi bạn trở nên một thân xác (thành thân).
Sau khi đã cử hành hôn phối, nếu đôi bạn đã sống chung với nhau thì sự hoàn hợp được suy đoán cho đến khi có bằng chứng chứng minh ngược lại.
Hôn phối không thành sự (vô hiệu) được coi là giả định, nếu đã được cử hành tại nhà thờ với sự ngay tình, ít ra là của một bên, cho đến khi cả hai bên đều biết chắc chắn về sự vô hiệu hay không thành sự của nghi thức hôn phối.
4) Vấn đề ngừa thai, phá thai:
- Ngừa thai: Giáo hội Công giáo quan niệm rằng, sinh sản là do quyền năng của Thiên Chúa, con người chỉ cộng tác vào sứ mạng này qua hôn nhân. Ngừa thai là loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi sứ mạng sinh sản ấy. Do đó, Giáo hội không cho phép sử dụng các biện pháp tránh thai nhân tạo (can thiệp trực tiếp để ngăn cản tiến trình thụ thai), mà chỉ được dùng cách ngừa thai tự nhiên (tính theo chu kỳ kinh nguyệt để biết ngày nào trứng rụng có thể đậu thai hầu tiết dục, nghĩa là tránh giao hợp vợ chồng trong thời gian mấy ngày trong tháng có thể đậu thai này). Mọi biện pháp can thiệp từ bên ngoài như: đặt vòng tránh thai, dùng thuốc tránh thai, dùng bao cao su...) đều bị cấm.
Tuy ngăn cấm việc ngừa thai nhân tạo và phá thai, nhưng Giáo hội cũng khuyến khích giáo dân sinh con có trách nhiệm, nghĩa là cha mẹ cần chuẩn bị để liệu sao có đủ điều kiện chăm sóc và nuôi dạy con cái cả về mặt vật chất cũng như tinh thần. Tránh sinh con vô trách nhiệm khi đang trong tình trạng nghèo đói chạy ăn từng bữa, đang bị bệnh nan y… mà cứ muốn sinh thêm nhiều con cái nữa. Vì đây là nguyên nhân gây bao nỗi bất hạnh cho các gia đình. Con cái không được nuôi dạy và học hành tử tế, trở thành bất hảo và là gánh nặng cho xã hội.
- Phá thai: Vì quan niệm phá thai là giết người từ trong trứng nước, nên Giáo hội Công giáo lên án gay gắt việc phá thai và coi là một trọng tội, vi phạm nghiêm trọng giới răn thứ năm “chớ giết người”. Những ai cố tình phá thai và những người cộng tác vào việc này đều bị chế tài là bị vạ tuyệt thông.
5) Nghi thức hôn phối:
Nghi thức hôn phối Công giáo thường được cử hành trong thánh lễ có giáo dân tham dự, trước mặt linh mục hoặc phó tế có quyền chứng hôn và hai nhân chứng. Trong trường hợp đặc biệt mà không có linh mục phó tế, đôi tân hôn có thể cử hành hôn lễ trước mặt thừa tác viên là giáo dân có quyền chứng hôn và hai nhân chứng, và sau đó phép hôn phối phải được ghi vào sổ hôn phối của giáo xứ sở tại.
- Nghi thức tuyên hôn: Trước mặt linh mục và hai người chứng, chú rể và cô dâu sẽ lần lượt cầm tay nhau mà tuyên bố nhận nhau làm vợ (chồng) theo công thức như sau:
“Anh (Em) ………….nhận em (anh) …………… làm vợ (chồng), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh) khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như luc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”.
- Nghi thức trao nhẫn: Chú rể và cô dâu lần lượt xỏ nhẫn cưới cho nhau và nói như sau: “T... , em (anh) hãy nhận chiếc nhẫn này để làm dấu chỉ tình yêu và chung thủy của anh (em). Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
LM ĐAN VINH
Giám Huấn HHTM Trung Ương
BÀI HÁT SINH HOẠT
01. HÂN HOAN ĐÓN CHÀO
Hân hoan đón chào bằng con tim yêu mến. Hân hoan chúc mừng bằng câu ca tiếng hát. Hân hoan kính dâng lời ca vang thiết tha. Hân hoan kính xin ngàn muôn ơn phúc lành.
02. CÁM ƠN
Cùng hòa vang lên tiếng cám ơn. Hát câu cám ơn vang dội nơi nơi. Hòa ngàn con tim muốn nói lên: lời cảm ơn không bao giờ phai, lời cám ơn không bao giờ phai.
03. NỐI VÒNG TAY LỚN
Rừng núi dang tay nối lại biển xa. Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà. Mặt đất bao la anh em ta về gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng. Bàn tay ta nắm nối trọn một vòng Việt Nam.
Cờ nối gió đêm vui nối ngày. Dòng máu nối con tim đồng loại. Dựng tình người trong ngày mới. Thành phố nối thôn xa vời vợi. Người chết nối linh thiêng vào đời và nụ cười nối trên môi.
Từ bắc vô nam nối liền nắm tay. Ta đi từ đồng hoang vu vượt hết núi đồi. Vượt thác cheo leo tay ta vượt đèo. Từ quê nghèo lên phố lớn, nắm tay nối liền biển xanh sông gấm nối liền một vòng tử sinh.
04. VÒNG TAY CHO NGƯỜI
1. Ngày xưa Chúa Kitô thập giá vác trên vai, vòng gai cuốn trên đầu Người ra pháp trường. Người đi chết cho tôi, Người đi chết cho anh, chết cho em, đi chết cho người người hôm nay. Người ơi có nhớ, Người đã chết cho đời, người ơi có hay, xin cho người vòng tay.
2. Ngày xưa Chúa Kitô tình mến thắm con tim, tình yêu nhuốm máu đào Người đi cứu đời. Người đang sống trong tôi, Người đang sống trong anh, sống trong em, đang sống trong lòng đời hôm nay. Bạn ơi hãy nhớ: Người đã sống lại rồi. Al-lê-lu-ia, ca lên nào bạn ơi.
05. ĐƯỜNG ĐI KHÓ
Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông. Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông. Anh em ta ơi đường dài còn dài còn nhiều trở ngại càng nhiều gian khó. Anh em ta ơi kiên gan kiên tâm quyết tâm ta vượt qua.
06. GẶP GỠ ĐỨC KITÔ
1. Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh. Nguồn suối nếu bế tắc thì dòng sông mau cạn khô, tình yêu không Kitô, ôi tình yêu sao cằn cỗi. Vì Chúa chính nguồn suối, nguồn yêu thương vô biên, biển yêu thương nối liền các hoang đảo giữa đại dương.
2. Mặc lấy Đức Kitô, khuôn mặt đầy hiền hoà. Mặc lấy Đức Kitô, tấm lòng luôn thứ tha. Mặc lấy Đức Kitô, môi miệng lời thật thà. Mặc lấy Đức Kitô, niềm vâng phục theo Cha.Cuộc sống kiếp lữ khách, lộ trình xa ôi thật xa, đường nguy nan phong ba, đơn độc đấu tranh nghiệt ngã. Kìa bỗng Chúa tiến đến, cầm tay nâng con lên, ủi an như mẹ hiền, chính Ngài Chúa bình yên.
07. HÀNH TRANG NGƯỜI TRẺ
ĐK. Lạy Chúa chúng con về từ bốn phương trời.Lạy Chúa chúng con về từ khắp thôn làng. Cùng với lớp sóng người hành hương về nhà Chúa đi về nhà Chúa đi.
1. Hành trang con mang theo đầy đau buồn của thế giới. Hành trang con mang theo trao căm hờn của kiếp nghèo. Về đây xin dâng Cha trong lo âu. Đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới.
2. Hành trang con mang theo cuộc nổi loạn của người trẻ. Hành trang con mang theo niềm lo sợ củalớp già. Về đây xin dâng Cha trong lo âu. Đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới.
3. Hành trang con mang theo đầy tấm lòng đầy chia sẻ .Hành trang con mang theo đầy sức mạnh tìnhcách mạng. Về đây xin dâng Cha trong lo âu. Đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới.
4. Hành trang con mang theo mọi khát vọng tìm chân lý. Hành trang con mang theo mọi xây dựng tìm công bằng. Về đây xin dâng Cha trong lo âu.Đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới.
08. GẦN NHAU
ĐK. Gần nhau, trao cho nhau yêu thương tình loài người. Gần nhau, trao cho nhau tin yêu đừng gian dối. Gần nhau, trao cho nhau ánh mắt nhân loại này. Tình yêu thương trao nhau xây đắp trên tình người.
1. Cho dù rừng thay lá xanh đi. Cho dù bầu trời thiếu mây bay. Ta vẫn yêu thương nhau mãi mãi.
2. Cho dù đồi hay núi di đi. Cho dù biển cạn nước bao la. Ta vẫn yêu thương nhau mãi mãi.
3. Cho dù mùa xuân thiếu hoa tươi. Cho dù rừng ngàn thiếu muông chim. Ta vẫn yêu thương nhau mãi mãi.
09. TA VÀO ĐỜI
Lễ vừa xong sắp rời đây ta vào đời. Đem Tin Mừng đem Tin Lành đi khắp nơi. Bao Lời Chúa bao ước nguyện đã suy ngắm. Hãy đem ra mà thực thi trăm phần trăm.
Hãy tỏ ra mình là người con yêu Chúa, hãy tỏ ra mình là một Kitô hữu. Hãy tạo hạnh phúc ngàn năm, bắt đầu trên đất Việt Nam.
10. TẠM BIỆT
Gặp nhau đây rồi chia tay. Ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây. Niềm hăng say còn chưa phai. Đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy. Đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy.
Còn trong ta, tình bao la. Cuộc tình tươi thắm bừng lên muôn ước mơ. Lời suy tư, lời đêm qua. Dặn lòng hãy nhớ lời yêu thương nhắn về. Dặn lòng hãy nhớ lời yêu thương nhắn về.
11. HY VỌNG ĐÃ VƯƠN LÊN
1. Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa chinh chiến. Hy vọng đã vươn lên trong nhục nhằn tràn nước mắt. Hy vọng đã vươn dậy như làn tên đang rực lên trong màn đêm...
2. Hy vọng đã vươn lên trong nhà hoang bên ruộng cằn.Hy vọng đã vươn lên trên nương buồn dòng sông vắng. Hy vọng đã vươn lên trong lòng thuyền còn xa bến. Hy vọng đã vươn dậy như triều dâng cho buồm căng xuôi trường giang...
3. Hy vọng đã vươn lên trên bàn tay, trên mặt mày. Hy vọng đã vươn lên trong tim người không bối rối. Hy vọng đã vươn lên chân nhịp nhàng còn đi tới. Hy vọng đã vươn dậy trong lòng anh, trong lòng tôi, trong lòng ai...
4. Hy vọng đã vươn lên trong mộ sâu quên ưu sầu. Hy vọng đã vươn lên dưới mặt trời thêm phơi phới. Hy vọng đã vươn lên trong cuộc tình toàn thế giới. Hy vọng đã vươn dậy trong ngày qua sang ngày nay cho ngày mai...
12. VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG NGẠO NGHỄ
Nhạc và lời Nguyễn Đức Quang
1.Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn. Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang. Lê sâu bàn chân gông xiềng một thời xa xăm. Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người. Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi. Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hận sôi. Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
ĐK. Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại. Xương da thịt này cha ông ta miệt mài. Từng giờ qua. Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi. Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang. Trên bàn chông hát cười đùa vang vang. Còn Việt Nam. Triệu con tim là cả triệu khối kiêu hùng.
2. Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng. Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm. Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi. Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người. Làm người huy hoàng phải chọn làm người VIỆT NAM.Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian. Hỡi những ai gục xuống khơi dậy hùng cường đi lên.
13. KHÔNG PHẢI LÀ LÚC
1. Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi. Phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới. Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau nghi ngờ nhau. Khích bác nhau cho cay cho sâu cho thật đau. Không phải là lúc ta ngồi mà cãi suông. Không tin nơi nhau thế ta định nhờ ai dắt đầu. Thế giới ngày nay không còn ma quái thần tượng tàn rồi. Còn anh với tôi chúng ta đi tới bằng cái tầm thường thôi.
2. Công bình bác ái không phải là những điều nói hoài, mà tự trời cao vội vàng vay tới ngay. Để tìm cho ra con đường thương mến nhau, ngang bằng nhau, hãy bước ngay đi trong gian nan trong đau khổ. Dân chủ tự quyết không phải là phép tiên, đem ra rêu rao bốn năm ngày là ta có liền. Lo công lợi chung không phải cao hứng một ngày vài ngày, làm nên vẻ vang có chăng khi chúng ta hết sợ thời gian.
ĐK. Làm việc đi không lo khen chê. Làm việc đi hãy say và mê. Cứ bắt tay gan lì chúng ta giải quyết. Mình chậm chân theo sau người ta, còn ngồi đây nghĩ lo viễn vông. Thắc mắc ngại ngùng khi nào mới làm xong.
14. LO GÌ
1. Cuộc đời bon chen giữa muôn con người, cùng niềm lo lắng áo cơm bạc tiền. Này người bạn ơi chớ quá buồn lo, hãy cứ tin yêu cha quan phòng là Thiên Chúa! Chẳng gặt chẳng gieo: lũ chim trên trời; Chẳng dệt chẳng may: đóa hoa ngoài đồng. Ngày ngày chim ca hát xướng cùng hoa, thấy lũ chim non, hoa kia đẹp hơn áo vua!
ĐK. Lo gì, ngày mai ta sẽ lo! Lo gì, mặc chi ăn uống chi?
Lo tìm, tìm vui công chính Cha. Lo tìm, tìm cho ta nước Cha!
-1: Này bạn: Ta quý hơn là loài chim lũ hoa, thì băn khoăn ngày mai làm chi?
-2: Hòa mồ hôi đất hoang, hòa lệ kinh đất khô, bàn tay chai cần lao!_ Lòng vui!
-3: Bạn ơi đừng lo!
2. Ngày ngày cầu xin giống xưa Cha dạy: Hằng ngày đủ no, áo cơm thơm lành. Và này bạn ơi! biết quý cần lao; nếu cứ ăn thôi không lo làm là không đáng.Việc nhỏ bạn ơi, phúc ân vinh dự, Dự phần của Cha, tác sinh muôn loài thợ thuyền thành tâm, chính Chúa ngày xưa: Chúa đã cho ta gương Lao động là chính Ngài.
3. Việc nhỏ đừng khinh, hãy luôn trung thành, để được ủy cho chức cao sang nhiều. Phụng sự vì Cha, Thánh Lễ là đây. Đám đất Chúa ban cho con người để vun tưới. Mệt mỏi của ta, hóa nên kinh cầu, là làn hương thơm trước tôn nhan Ngài. Việc nhỏ của ta: khúc hát lời ca; hãy mến yêu Cha luôn tâm hồn luôn xác ta!
15. CHUNG SỐNG
1. Muốn bếp hồng thì góp củi góp than. Muốn rộn rã thì góp tiếng ca tiếng đàn. Mình cùng nhau ở chung mái nhà. Nhà mình vui tựa những niềm vui góp về. Muốn no say muốn ấm êm thì góp rượu thịt góp chiếu chăn. Mình cùng nhau hợp chung tấm lòng. Nhà mình chan hòa những niềm vui sống cùng.
Góp một bàn tay. Dựng xây mái ấm nhé. Góp một cánh én. Vời đưa xuân sang.
2. Muốn lãng mạn thì góp mộng góp mơ. Muốn tình tứ thì góp nhớ nhung vỗ về. Mình còn yêu còn mong mới lạ. Đừng để quen thuộc đến nhàm chán hững hờ. Muốn thuận hòa muốn thiết tha, thì góp độ lượng góp lắng nghe. Mình còn yêu còn mong sát gần. Đừng để riêng biệt xa rời chia cách mình.
Thơ mộng lên đi. Tìm hương sắc mới nhé. Đến gần nhau thêm. Và yêu nhau hơn.
16. TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐƠN
1. Tôi không còn cô đơn buồn khô héo bên giòng đời. Tôi không còn cô đơn mặc cho năm tháng trôi xuôi. Tôi không còn cô đơn dù rằng bờ vai vất vả, chuyện lòng ngổn ngang mấy ngả, lênh đênh tìm một mái nhà. Tôi đã gặp niềm vui từ khi lắng nghe lời Người. Tôi đã gặp niềm vui bừng lên trong đáy tim tôi. Tôi đã gặp niềm vui từ ngày tình yêu sáng tỏ, mở rộng hồn tôi bé nhỏ, dắt tôi đến miền tôi mơ.
ÐK: Chúa đã dạy tôi (Chúa đã dạy tôi) yêu Chúa yêu người (yêu Chúa yêu người). Chúa đã dạy tôi yêu người như chính thân tôi. Tình yêu chân chính (thiệt hơn không tính), vì nghĩa quên mình, (nghĩa trọng lợi khinh). Còn gì cao quý bằng tình yêu biết hy sinh. (Nỗi vui thiên đình). Chúa đã dạy tôi (Chúa đã dạy tôi) nhân ái công bình (nhân ái công bình). Manh áo hạt cơm vui buồn chia sớt cho nhau. Nhìn nhau không nói (tình không biên giới), mà ý khôn vơi (biết bao là vui), còn đâu buồn cô đơn nữa........ người ơi, (bao là vui).
2. Tôi yêu người anh em cùng tôi sống chung hằng ngày, tôi yêu người chưa quen từ phương nao đến nơi đây. Không quên lời dạy xưa mọi người là con Chúa cả, thì dù ngược xuôi tất tả nhưng xum họp một mái nhà. Tôi yêu người nông dân làm bông lúa lên vàng trời, tôi yêu người công nhân làm cho nếp sống thêm tươi. Noi gương người khi xưa làm thợ mà vui vất vả, một người hòa chung tất cả nghĩa anh em cùng một cha.
NGHI THỨC LÊN ĐƯỜNG
Lớp Giáo Lý Hôn Nhân
Giảng Viên:
Thời gian năm tháng đã dẫn đưa những người tín hữu trẻ này đến khúc quanh quyết liệt của đời sống, bước vào tuổi trưởng thành, với những trách nhiệm ngày càng lớn hơn. Những ngày tháng tới có thể họ ít có dịp gặp gỡ nhau trong giờ bồi dưỡng đức tin. Thế nhưng, với những hành trang đã nhận dược từ những lớp giáo lý và sinh hoạt giáo xứ trong những năm qua, và đặc biệt trong khóa Giáo Lý Hôn Nhân này, cũng như với kinh nghiệm gặp Chúa của chính bản thân, hôm nay, họ đến đây để dâng mình cho Chúa rồi họ sẽ lên đường thi hành sứ mạng đó bằng một đời sống thánh thiện, trở thành muối men, thành chứng nhân cho nước trời, đồng thời xây dựng cho mình một gia đình Công Giáo hạnh phúc theo tinh thần KiTô Giáo. Giờ đây, xin mời các bạn trẻ sắp lên đường tiến lên Cung Thánh.
Giảng Viên:
Kính thưa Cha, thay mặt ban giáo lý hôn nhân giáo xứ, con xin giới thiệu lên Cha các em đã học xong chương trình Giáo Lý hôn nhân nay xin được cử hành nghi lễ lên đường.
Cha Chủ Sự: Anh thấy những người này có xứng đáng không?
Giảng Viên: Thưa Cha, qua thời gian gần gũi hướng dẫn lớp, con xin xác nhận các em này đã tỏ ra xứng đáng.
Cha Chủ Sự: Các con thân mến, bước vào giai đoạn mới của đời sống, các con đến đây để làm gì?
Bạn Trẻ: Thưa Cha, chúng con muốn dấn thân lên đường phục vụ Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trong ơn gọi hôn nhân của chúng con.
Cha Chủ Sự: có ai cùng lên đường với các con không?
Bạn Trẻ: Chúng con sẽ lên đường cùng với Chúa Kitô và tất cả Nhiệm Thể Ngài là Hội Thánh. Chúng con vững tin vì Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng con, bằng một cách hữu hình, chúng con biết mình sẽ được nâng đỡ bởi các chủ chăn, các phụ huynh và những người đồng hành.
Cha Chủ Sự: Các con thân mến, bước vào cuộc sống trưởng thành, đối với bản thân, chúng con sẽ làm gì?
Bạn Trẻ: Chúng con sẽ luôn cố gắng đổi mới đời sống để ngày càng nên hoàn thiện hơn trong Gia Đình cũng như ngoài Xã Hội.
Cha Chủ Sự: Đối với Thiên Chúa, chúng con sẽ bày tỏ lòng yêu mến cách nào?
Bạn Trẻ: Chúng con sẽ chuyên cần cầu nguyện, lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa. Chúng con sẽ siêng năng lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Giao Hòa, luôn làm mọi việc vì lòng mến Chúa và Yêu Người.
Cha Chủ Sự: Trong Hội Thánh và trong Xã Hội, chúng con làm gì?
Bạn Trẻ: Chúng con sẽ khiêm nhường, vâng phục các bề trên trong Hội Thánh và quảng đại hợp tác với mọi thành phân dân Chúa và những người Thiện Chí trong Xã Hội, mau mắn phục vụ mọi người xung quanh nhất là những người bé nhỏ, yếu đuối và bị bỏ rơi. Chúng con sẽ can đảm tuyên xưng Đức Tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống và nhiệt thành rao giảng Tin Mừng của Chúa. Quyết tâm xây dựng gia đình Công Gíao hạnh phúc theo tinh thần Kitô Giáo.
Cha Chủ Sự: Vậy các con hãy nói lên lời tuyên hứa của chúng con.
Bạn Trẻ: Trước mặt Thiên Chúa Ba Ngôi, trước mặt Đức Mẹ Maria, Thánh cả Giuse, các Thiên Thần và các Thánh Nam Nữ, cách riêng là các Thánh Bổn Mạng của chúng con, đồng thời trước mặt Cha Xứ, trước mặt giảng viên, những người đồng hành, bạn hữu và cộng đoàn, chúng con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để luôn nêu cao lòng mến Chúa yêu người, xứng đáng là người Tín Hữu tốt và người công dân tốt, đồng thời xây dựng gia đình bé nhỏ của chúng con thành mái ấm hạnh phúc có sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa theo gương Gia Đình Thánh Gia.
Cha Chủ Sự: Các con thân mến, Thay mặt Chúa và Hội Thánh, Cha nhận lời tuyên hứa của các con. Xin Thiên Chúa Ba Ngôi chúc lành cho mọi ước nguyện và việc làm tốt đẹp của các con. Xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse là mẫu gương đời sống gia đình, cùng các Thánh và các Thiên Thần đồng hành với các con và nâng đỡ các con trên bước đường sắp tới. Các con hãy trông cậy vào Chúa Thánh Thần và một lần nữa, hãy bày tỏ ước nguyện của các con với Chúa Giêsu.
BẠN TRẺ QUỲ GỐI ĐỌC: (hay hát kinh Hòa Bình) Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ bị thương, biết làm việc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hi sinh mà không cần phần thưởng nào khác, hơn là hiểu rằng con đang làm tròn THÁNH Ý CHÚA. Amen
Cha Chủ Sự trao giấy chứng nhận cho các ban trẻ và nhắn nhủ:
Giờ đây các con hãy nhận lấy giấy chứng chỉ này như một minh chứng các con đã nỗ lực học hỏi và tìm hiểu về đời sống hôn nhân, đồng thời các con hãy tiếp tục học hỏi và đào sâu hơn nữa những kiến thức về đời sống gia đình để gia đình của các con sau này thực sự là những mái ấm hạnh phúc có sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi
Mời từng em lên lãnh chứng chỉ .
Chụp hình lưu niệm .
HÁT: kết thúc bài GIEO BƯỚC HÀNH TRÌNH
1/ Nào bạn ơi mau lên gieo bước hành trình, dòng thời gian đi nhanh chẳng biết dừng chân, đừng phân vân bi quan sẽ làm tất cả muộn màng cuộc sống quanh ta luôn vội vã. Nào bạn mau xua đi những tiếng thở than làm việc đi vui lên với cả nhiệt tâm, từ đôi tay hôm nay hoang địa sẽ thành ruộng đồng và lúa lên xanh cả trời hồng
ĐK: Nào mau lên đường khi trời còn sáng bạn ơi, cùng nhau bắt đầu để cùng gặt hái xanh tươi
2/ Cùng thời gian ta đi đến cuối đường dài, bằng hành trang yêu thương tin tưởng ngày mai. Vì trong tim ta luôn sáng ngời ánh lửa mặt trời đời sẽ thôi âm u mù tối. Dù trong ta bao nhiêu yếu đuối nhỏ nhoi, bằng khiêm nhu kiên tâm thăng tiến bạn ơi. Đời đẹp hơn tươi hơn khi mình chấp nhận cùng người cộng góp chung xây muôn nụ cười.
KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY LỚP GLHN KHÓA 10 / 2020
Giáo lý Hôn Nhân là một trong những hoạt động mục vụ đặc biệt của Giáo xứ, nhằm đáp ứng nhu cầu của các bạn trẻ trong Giáo xứ. Thông cảm với hoàn cảnh hậu đại dịch. Chúng ta rút gọn chương trình học như sau:
Thứ ba : Kểm tra – đôn đốc – nhắc nhở - Sinh hoạt lớp – Tham luận
Thứ sáu : Kểm tra – đôn đốc – nhắc nhở - làm bài kiểm tra có 2 phần:
*Phần 1 trắc nghiệm hỏi thưa
*Phần 2 tự luận.(có câu hỏi gợi ý).
Thủ bản học Giáo Lý Hôn Nhân được tóm gọn trong 130 câu hỏi thưa.
Mỗi tuần học 32 câu hỏi thưa tại nhà. Dàn trải ra 4 tuần:
- Tuần 1: Từ 02/06 – 09/06/2020: Học từ câu 01 - 32
- Tuần 2: Từ 10/06 – 17/06/2020: Học từ câu 33 - 65
- Tuần 3: Từ 18/06 – 25/06/2020: Học từ câu 66 - 98
- Tuần 4: Từ 26/06 – 13/07/2020: Học từ câu 99 - 130
Chủ đề tham luận:
- Tuần 1: TẠI SAO PHẢI HỌC GIÁO LÝ HÔN NHÂN TRƯỚC KHI CƯỚI
- Tuần 2: Người Vợ Duyên Dáng
- Tuần 3: Người Chồng Lịch Lãm
- Tuần 4: Tôn Trọng Nhau
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét