Thứ Năm, 19 tháng 1, 2017

VẤN ĐỀ "SỐNG THỬ" CỦA GIỚI TRẺ NGÀY NAY

VẤN ĐỀ "SỐNG THỬ" CỦA GIỚI TRẺ NGÀY NAY

Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, một kỷ nguyên đánh dấu bước ngoặt về kinh tế, khoa học và nhất là sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin đã làm cho cuộc sống con người ngày càng được nâng cao. Tiếc thay, những giá trị đạo đức đang bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới trẻ ngày nay quá lạm dụng tự do để chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con người. Một trong những lạm dụng tự do, đó là “sống thử”. Vấn đề này không chỉ là sự lo lắng của các bậc làm cha mẹ mà còn là thách đố của các nhà giáo dục cũng như những người có trách nhiệm.

1. Tình trạng “sống thử” của giới trẻ
Trong những năm gần đây, ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, đã xuất hiện một lối sống mới của giới trẻ: Những đôi nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới hôn nhân chính thức, sẽ đăng ký kết hôn theo pháp luật. Còn nếu thấy không phù hợp, họ sẽ chia tay nhau, không cần đến pháp luật. Người ta gọi đó là “sống thử”. Hiện tượng “sống thử” hay còn gọi là “góp gạo thổi cơm chung” đã và đang trở thành một thứ “mốt” trong lối sống của giới trẻ hiện nay, không chỉ trong giới công nhân sống xa nhà mà còn cả ở những sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường. Theo thống kê của khoa xã hội học Đại học Mở TPHCM, năm 2010, có khoảng 1/3 các bạn trẻ sống thử trước hôn nhân: Lan, sinh viên năm thứ 2 trường Đại học Nông Lâm TPHCM, cho biết: “Ở xóm trọ của em, gần một nửa các bạn sống thử trước hôn nhân”. Tôi được một bạn công nhân chia sẻ, dãy phòng trọ của em có 10 phòng thì có đến sáu phòng “góp gạo thổi cơm chung”.
Mặt khác, “sống thử” đa phần là học đòi theo mốt chứ chưa có định hướng tương lai là có lấy nhau hay không. Xét theo truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam thì “sống thử” là một lối sống không phù hợp, không nên khuyến khích, nó có tác động xấu đến đời sống và mang lại nhiều hậu quả đáng tiếc cho bản thân và xã hội. Đồng thời, “sống thử” khó được toàn xã hội chấp nhận, đó là lối sống sai lầm, buông thả, phóng túng, làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống, là một biểu hiện của sự xuống cấp về đạo đức trong lối sống thực dụng ngày nay.
Hơn nữa, “sống thử” còn là một trong những thực trạng của xã hội, nó đang có nguy cơ lan rộng như một “dịch bệnh”. Đối tượng được nói đến cách phổ biến, lại rơi vào các học sinh, sinh viên, công nhân, viên chức, hay người trẻ vốn phải sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, khó khăn trong cuộc sống nhưng lại chưa đủ bản lĩnh để bươn chải vào đời.
Chuyện “sống thử” trước khi quyết định tiến tới hôn nhân có thực sự là một giải pháp tốt để tiến tới một cuộc hôn nhân hoàn hảo hay nó chỉ là "cái bẫy của một quan niệm suy đồi trong lãnh vực hôn nhân"?

2. Nguyên nhân “sống thử” của giới trẻ
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng “sống thử”, nhưng vì giới hạn của bài viết, tôi chỉ xin nêu ra một vài nguyên nhân sau:
2.1 Nguyên nhân bản thân
Do sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, thiếu vật chất, hoặc có thể vì đua đòi và đi theo não trạng sai lạc do chủ thuyết “duy thế tục” được tự do quảng bá dưới mọi hình thức trong đời sống xã hội. Một số bạn không thích kết hôn khi sự nghiệp chưa vững vàng và càng không thể để "Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy". Tư tưởng mạnh mẽ giúp họ cởi mở hơn trong quan niệm tình dục và không còn e dè dư luận xã hội trước kia. Theo tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, trưởng khoa tâm lý Đại học sư phạm TPHCM cho rằng: “Một trong những nguyên nhân dẫn đến giới trẻ sống trước hôn nhân là các bạn sống quá tự do, sống xa nhà, thiếu thốn tình cảm, sống buông thả”.
Hơn nữa, nhiều bạn đã tự nguyện sống thử, đặc biệt là các bạn nữ sinh viên và công nhân. Các bạn thích một cuộc sống hưởng thụ, phóng đãng, không tôn trọng chuẩn mực đạo đức của cộng đồng hay luật lệ của tôn giáo. Rất nhiều bạn không những coi thường luật pháp và giáo luật mà còn tự hạ thấp nhân phẩm của mình, không coi trọng giá trị của đời sống gia đình, cho dù biết hành động mình đang làm là sai trái với chuẩn mực cuộc sống nhưng vẫn cố tình bước vào.

2.2 Nguyên nhân từ gia đình
Do cha mẹ sống không hạnh phúc, những cảnh xào xáo, chửi bới và cãi vã thường ngày trong gia đình chính là yếu tố làm cho giới trẻ không muốn nghĩ đến hôn nhân; ngược lại, coi hôn nhân như một sự ràng buộc, cùm kẹp, hoặc chỉ như cơ hội để người ta lợi dụng nhau. Đồng thời, do cha mẹ bồ bịch, mèo chuột, muốn “tìm của lạ” hoặc “ông ăn chả, bà ăn nem” nên không thể khuyên bảo con cái được. Cha mẹ lăng nhăng mà cấm con cái bồ bịch mới là chuyện lạ!
Hơn nữa, cha mẹ không quan tâm đến đời sống và tình cảm của con mình, không động viên con cái sống lành mạnh, chỉ biết phó mặc cho nhà trường, thì làm sao chúng không hư hỏng? Theo thạc sĩ tâm lý nữ tu Hồ Thị Hạnh cho biết: “Do cha mẹ chỉ biết kiếm tiền, không quan tâm đến đời sống của con cái. Mà thực ra, cha mẹ đâu chỉ có kiếm tiền cho con là đủ mà còn phải biết đồng hành với con cái, nhất là ở lứa tuổi đang chập chững biết yêu”. Còn theo tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, trưởng khoa tâm lý Đại học sư phạm TPHCM thì cho rằng: “Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “sống thử” ở giới trẻ là do sự giáo dục của gia đình còn quá lỏng lẻo, ít quan tâm tới các em, nhất là lúc các em đang tuổi cặp kè yêu đương, các em muốn có người đồng hành để chia sẻ”.

2.3 Nguyên nhân từ xã hội
Do ảnh hưởng văn hóa Phương Tây tràn vào, nên tình trạng quan hệ tình dục và “sống thử” trước hôn nhân ở giới trẻ đang ở mức báo động. Nhiều bạn trẻ thật dễ dãi, cho rằng “việc đó” là bình thường, không ảnh hưởng gì. Theo tiến sĩ tâm lý Vũ Gia Hiền: “Việc các bạn trẻ “sống thử” trước hôn nhân không chỉ ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây mà còn do lối sống quá dễ dãi của các bạn. Đồng thời, do ảnh hưởng của nền văn hóa “tốc độ”, một số bạn trẻ quan niệm về tình yêu “rất hiện đại” hay còn gọi tình yêu tốc độ”. Cách đây không lâu, tôi có dịp đến thăm các bạn sinh viên sống ở khu nhà trọ, tôi thật bất ngờ trong một dãy phòng trọ, có khoảng một phần ba các bạn “sống thử” trước hôn nhân, hay còn gọi là “góp gạo thổi cơm chung”.
Hơn nữa, do ảnh hưởng của truyền thông, các bạn nghe nhạc, đọc tiểu thuyết, xem phim ảnh, tạp chí về yêu đương và cả những trang web về tình dục là điều không thể tránh khỏi. “Tai nghe không bằng mắt thấy”, có nhiều bạn trẻ vì tò mò “sống thử để biết”, và “sống thử vì thấy bạn bè mình có nhiều cặp cũng đang sống chung đấy thôi”. Tôi được một bạn sinh viên chia sẻ: “Phòng em có ba người ở, hai bạn của em có người yêu, em cảm thấy rất buồn và quyết định kiếm đại một người yêu để vơi đi nỗi buồn. Nhưng sau thời gian khi chiếm được thân xác em, anh ta đã cao chạy xa bay rồi”. Cách suy nghĩ mang tính trào lưu này khiến các bạn trẻ dễ thả mình theo sống thử, không thấy hợp thì chia tay, không còn xem trọng việc hệ trọng cả đời là hôn nhân và gia đình. Theo TS tâm lý học Trương Thị Bích Hà: “Do đến với nhau chỉ vì tò mò, vì tiết kiệm, vì người khác sống thử thì mình cũng sống thử và chỉ để thỏa mãn dục vọng nhất thời. Mặt khác, do hội nhập văn hoá làm cho giới trẻ sống “tây hoá” không còn biết đến nền tảng đạo đức của con người”.

3. Hậu quả của việc “sống thử”
 “Sống thử” mang lại nhiều khó khăn hơn những gì người ta tưởng tượng về nó, và thực sự, trong cuộc sống “thử” người ta cũng ít có trách nhiệm với nhau hơn. “Sống thử” là một cuộc sống không lâu bền vì hầu hết sau một thời gian sống chung tạm bợ, những va chạm trong cuộc sống hằng ngày dễ làm cho người ta chán nhau, nhất là những cặp sinh viên “sống thử” còn phải mang theo nỗi lo học hành, nỗi lo “cơm áo gạo tiền” thì càng bức bối. “Sống thử” rất bấp bênh, thiếu một mục đích cụ thể, do vậy khi gặp khó khăn, mâu thuẫn đáng ra có thể giải quyết được, thì hai người lại dễ buông xuôi và tan vỡ. Tâm lý “không hợp thì bỏ” khiến nhiều bạn trẻ thiếu trách nhiệm với bản thân, người yêu và tình yêu của mình, “cả thèm chóng chán” và mối quan hệ trở nên nhạt dần. Cuộc sống vợ chồng sẽ trở nên nhàm chán nhanh chóng nếu cả hai không nhận thấy trách nhiệm phải vun đắp cho mối quan hệ thì tất yếu là không vững bền.
Hơn nữa, vì chỉ có hai người coi nhau là vợ chồng, còn xã hội và gia đình thì không, nên chẳng có ai giúp đỡ cho “vợ chồng” này khi gặp những khó khăn, trục trặc nhỏ trong tình cảm để nó không bùng phát thành mâu thuẫn lớn; chẳng có ai bảo vệ “gia đình” này khi có kẻ thứ ba dòm ngó. Và nỗi lo chẳng may có thai trước khi kết thúc giai đoạn “sống thử” sẽ khiến cho cuộc sống tình dục “vợ chồng thử” của các bạn trẻ không bao giờ có được niềm hạnh phúc tự nhiên như trong một cuộc hôn nhân hợp pháp. Rồi nhiều chuyện không mong muốn xảy ra như nạo phá thai, con cái sinh ra chưa được pháp luật công nhận và đặc biệt nó có thể kéo theo nhiều căn bệnh nguy hiểm và có thể gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống hôn nhân thực sự của các bạn sau này.
“Sống thử” làm cho hai người biết quá rõ về nhau, nhàm chán và đơn điệu, chưa kể đến vấn đề “cơm áo gạo tiền”, những mâu thuẫn trong cuộc sống hằng ngày là điều không thể tránh khỏi. Khi các bạn chưa thực sự là của nhau thì việc chia tay là hoàn toàn có thể xảy ra. Tất nhiên, đám cưới chỉ là hình thức nhưng giấy tờ hôn thú là sự ràng buộc về giáo luật và pháp luật, đó là kết quả của một tình yêu chín muồi. Khi sống thật, các bạn trẻ sẽ sống có trách nhiệm hơn, yêu và tôn trọng nhau hơn. Chẳng hạn, một cuộc nghiên cứu của Trung tâm Hôn nhân và Gia đình tại trường Đại học Crieghton (Mỹ) cho biết, những đôi bạn sống chung trước khi thành hôn thường phải chịu đau buồn khốn khổ nhiều hơn bởi cách sống ấy, và cuối cùng dẫn tới tình trạng không ổn định trong đời sống vợ chồng. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là những người đã chung sống trước hôn nhân như thế lại có khuynh hướng “cãi nhau liên miên” ngay sau ngày cưới.
Một khi “sống thử” tan vỡ, bạn nữ chịu thiệt thòi đã đành, bạn nam cũng không phải không bị ảnh hưởng; mất mát về thời gian, sức khoẻ, tiền bạc, mất mát nhiều cơ hội trong cuộc sống… chia đều cho cả hai bên. Nhiều bạn gái gặp bế tắc sau khi “sống thử” đã tự tử. Tỷ lệ nạo phá thai ở Việt Nam gia tăng rất nhanh và hiện là một nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, đóng góp không nhỏ là việc “sống thử” của các bạn trẻ. Họ còn chưa đủ tiềm lực về kinh tế, nhận thức về trách nhiệm và hậu quả còn nông cạn, thường cho rằng hiện đại là phải “sống thử”. “Sống thử” nhưng chia tay là thật, theo thống kê từ Bộ tư pháp Mỹ cho thấy trong vòng 15 năm qua, 86% các cuộc “sống thử” đã kết thúc bằng chia tay. Tiếp tục theo dõi 14% tiến đến hôn nhân thì tỷ lệ ly dị của những đôi này lại cao hơn những cặp trước đó đã ra sống riêng. Vì thế, có thể khẳng định “sống thử” không thể là bước đệm cho một cuộc hôn nhân bền vững.
Giáo sư xã hội học, bà Linda Waite, sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy đã cho biết: Những cặp chung sống gần như vợ chồng đã trải qua kinh nghiệm đau khổ như bị ngược đãi hay phản bội nhau mà hoàn toàn không nhận được sự trợ giúp nào từ gia đình đôi bên. Bà cho biết tiếp, 16% phụ nữ sống chung với bạn trai hay bị đánh đập vào những lần cãi vã, trong lúc chỉ có 5% phụ nữ bị đánh đập khi chung sống với chồng của họ. Những cặp khác, có con chung, không giáo dục nổi con họ vì họ không cảm nhận được ràng buộc thiêng liêng của vợ chồng thực thụ. Đặc biệt, người cha rất vô trách nhiệm, và sống bê tha, không chu cấp cho con mình, mà tự cho mình chỉ là "bạn trai" của mẹ đứa bé, và vô hình chung, người đàn ông đó đã chuyển trách nhiệm nuôi và dạy đứa nhỏ cho bà mẹ. Hơn nữa, bà còn cho biết, đời sống sinh lý của những người không phải là vợ chồng cũng không điều hòa như đời sống vợ chồng.

3.1 Trả giá quá “lớn
Một phút vui chơi bên người mình yêu, bên tình nhân tưởng như đang ở thiên đường; những tháng ngày vắn vỏi bên nhau tưởng giúp con người thoải mái về tinh thần và thể xác, hay đáp ứng cách trọn vẹn khao khát sống cho nhau. Nhưng hậu quả của nó mang lại rất lớn mà người trong cuộc thường không lường hết được. Đó là việc gia đình sau này lục đục, bất hòa… gây hoang mang tinh thần cho những người thân trong gia đình.
Bên cạnh nỗi đau về tinh thần còn có nỗi đau về thể xác, hậu quả của người trong cuộc khó tiên liệu trong hiện tại, vì câu trả lời chỉ có trong tương lai. Có lẽ chỉ với những người đang và sẽ làm mẹ mới hiểu nỗi đau không thể sinh con mà hậu quả của những lần phá thai để lại; hiện tại họ không có lựa chọn nào khác hơn là phá bỏ cái thai, nhẫn tâm trở nên “thú dữ” với chính mầm sống đang từng ngày lớn lên trong bụng. Đó là giải pháp cuối cùng và tất yếu của cuộc ngoại tình, hôn nhân ngoài giá thú, hay “sống thử”, vội vàng “cho” để chứng minh tình yêu của cô gái, hay của những cuộc ăn chơi thác loạn…
Một khi cuộc sống chung không xây dựng trên nền tảng vững chắc của gia đình, thì tất yếu sẽ dễ dàng đi đến chỗ rạn nứt và đổ vỡ với những lý do rất đời thường như: ghen tuông, không còn yêu nhau, hay không có trách nhiệm… Và đó cũng là nguyên nhân xảy ra những cuộc ẩu đả, bạo hành giữa vợ chồng với nhau… trước khi chia tay. Phần lớn người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi.

3.2 Di chứng tương lai
Một khi “trao thân gửi phận” cho nhau nhưng không thành vợ thành chồng, cũng để lại nhiều vết thương lòng và tâm lý trong tương lai. Nhiều phụ nữ lỡ “trải nghiệm” trong quá khứ, thì tương lai phải đối diện câu trả lời về trinh tiết với người bạn đời hay khi yên bề gia thất, người cũ quấy rối, tống tiền; hoặc mặc cảm tự ti với gia đình... Tất cả điều đó, thường cản lối đến với cuộc sống tốt đẹp phía trước, và sự chọn lựa vì đó không được trọn vẹn. Và chắc chắn, không có cơ hội tận hưởng hạnh phúc, dù chỉ là những giây phút ngắn ngủi trong cuộc đời dương thế.
Tất cả những hậu quả đó, hơn ai hết, chính bản thân người trong cuộc sẽ phải gánh chịu, không chỉ ở thời gian hiện tại mà còn ảnh hưởng dài tới tương lai sau này. Hậu quả của việc “sống thử”, quan hệ trước hôn nhân sẽ dễ sinh nhàm chán và nếu có hôn nhân thì cuộc sống của họ thường không hạnh phúc và tiếp theo là một “lộ trình buồn”.
Thật đáng tiếc cho giới trẻ ngày nay. Cái tai hại hơn và không đáng có, lại là nỗi bất hạnh của những đứa trẻ, có thể chúng sẽ không được thấy ánh dương mặt trời vì sự “nhẫn tâm và tàn nhẫn” của cha mẹ; hay nếu được sinh ra thì cũng sẽ èo uột vì “thiếu vắng sự ấm áp” từ tình thương của cha hoặc mẹ. Và như thế, chúng sẽ là những đứa trẻ phát triển không bình thường về thể lý và tâm lý .

4. Để hạn chế việc “sống thử”
4.1 Về phía bản thân
Bản thân các bạn, nên cố gắng học hỏi, trau dồi kiến thức về tình yêu, về hôn nhân gia đình, không nên vì những lời ngon ngọt của người yêu mà bỏ qua những chuẩn mực, giá trị đạo đức của người Việt Nam. Các bạn gái phải tự biết bảo vệ cái quý giá nhất của mình. “Sống thử”, nếu “dính bầu” thì đơn giản là đi phá thôi sao? Đừng chỉ vì một giây phút nông nổi mà bạn phải ân hận suốt đời khi mất luôn thiên chức làm mẹ. Hơn nữa, các bạn nên tham gia các đoàn hội, tạo một sân chơi lành mạnh, giao lưu học hỏi và phải quyết tâm nói không với việc “sống thử”.

4.2 Về phía gia đình
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, Ðức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consorto” đã khuyến cáo các bậc phụ huynh: “Bởi vì cha mẹ đã cho con cái sinh ra đời, họ phải có một bổn phận quan trọng nhất, là giáo dục con cái của họ. Do đó, cha mẹ phải nhận rằng, chính họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo dục của họ quyết liệt đến nỗi thật khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy linh hoạt trong tình yêu và tôn kính Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy nở trong con người. Vì vậy, gia đình là trường học đầu tiên cho tất cả những đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã hội nào cũng cần phải có.”
Ðây không phải là khó khăn có thể đóng khung trong khuôn khổ gia đình, nhưng thực sự nó đã trở nên thách đố quan trọng của Giáo hội và xã hội. Ðể đối phó, cần có sự vận động qui mô với sự hợp tác chặt chẽ của gia đình, học đường và giáo xứ. Sự hợp tác này, cho đến hiện tại vẫn còn được mô tả là chưa đúng mức, nếu không muốn nói là quá hời hợt. Thành thật mà nói, đa số các bậc phụ huynh Việt Nam, mặc dù có kinh nghiệm, nhưng việc nói chuyện về tình dục với con cái, đã không được coi như “tốt lành”. Có một bà trong xứ đạo của người Việt kia, đã than phiền rằng cha xứ đã dạy các thanh niên nam nữ trong họ đạo những điều “tục tĩu”, khi những người trẻ này tham dự các lớp giáo lý Chuẩn Bị Hôn Nhân! Vì vậy, chính một số phụ huynh cũng cần phải được đi “huấn luyện” thêm, học hỏi thêm, trước khi họ có thể giúp đỡ con cái của họ.

4.3 Về phía xã hội
Xã hội nên có những buổi tuyên truyền, những buổi hội thảo, những diễn đàn và những bài viết liên quan đến vấn đề này, nên tổ chức và khai triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau trong xã hội cũng như trong Giáo hội Công giáo một cách sôi động. Giới trẻ có rất nhiều điều hấp dẫn, bổ ích trong học tập, làm việc, giao lưu bạn bè, giải trí… Hơn nữa, chúng ta sinh ra ở Việt Nam, một nước phương Đông với nhiều giá trị đạo đức tốt đẹp. Vì vậy, người Việt Nam dù có văn minh hay học hỏi ở nước ngoài thế nào, cũng nên giữ lại một chút truyền thống của dân tộc mình. Biết rằng, phương Tây họ có nhiều cái hay, cái mới mình cần nên học, nhưng họ cũng có những cái xấu mà mình không nên học, hoặc dù có học cũng nên điều chỉnh sao cho phù hợp với nước mình một chút.

5. Quan điểm và lập trường của Giáo hội Công giáo
Theo giáo luật, hai tín hữu Công giáo mặc dù đã làm hôn thú dân sự với nhau, nhưng họ chưa thực hiện bí tích Hôn Phối trước mặt Giáo hội, hôn thú của họ vẫn không phải là bí tích, và do đó họ không thể ăn ở với nhau như vợ chồng thật sự. Đối với những vợ chồng không Công giáo, hôn thú dân sự của họ là hôn phối tự nhiên. Giáo hội vẫn tôn trọng hôn phối đó. Nhưng đối với người Công giáo, họ có nghĩa vụ của các tín hữu, đó là hôn phối của họ phải được kết ước theo thể thức của Giáo hội đã quy định (GL 1108) để có thể là bí tích Hôn Phối.
Hôn phối của các người Công giáo, cho dù chỉ một bên là người Công giáo, họ bị chi phối không những bởi luật Thiên Chúa, mà còn bởi luật Giáo hội nữa, tuy vẫn tôn trọng thẩm quyền của luật dân sự về hiệu quả thuần túy dân sự của hôn nhân. Đồng thời, có những người nghĩ rằng vì đã tốn kém nhiều mới lấy được vợ, nên phải ăn ở với nhau càng sớm càng tốt dù chưa làm phép cưới theo luật đạo; cách ứng xử như thế, bộc lộ một thái độ thiếu tôn trọng người bạn đời của mình, coi người bạn đời như món hàng mình đã tốn kém nhiều mới kiếm được nên phải tận hưởng càng sớm càng tốt. Quan niệm đó cũng không phù hợp với giáo lý Công giáo về hôn nhân.
Đối với Giáo hội, hôn phối không phải chỉ là chuyện riêng tư thuần túy giữa hai người nam nữ, nhưng còn liên hệ tới tính hiệp thông trong toàn thể cộng đoàn Giáo hội. Thật vậy, từ đôi hôn phối Kitô giáo này sẽ đem đến một gia đình Kitô với tất cả sự phong phú của cuộc sống, khả năng giáo dục tri thức và đức tin, trở nên một tế bào sống động của Giáo hội. Gia đình là tế bào đầu tiên của Giáo hội và được Công Đồng Vaticanô II gọi là “Giáo hội tại gia”. Khi cử hành hôn phối theo nghi thức của Giáo hội, đôi vợ chồng Công giáo bày tỏ quyết tâm dấn thân sống đời hôn nhân theo giới luật của Chúa và những mong đợi của Giáo hội.

Tóm lại
“Sống thử” trước hôn nhân là một lối sống đáng phê phán và phải ngăn chặn vì nó để lại nhiều tác hại đối với gia đình và xã hội. Nó làm băng hoại lối sống lành mạnh của giới trẻ và gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho chính tương lai của lớp trẻ. Hơn nữa, Giáo hội kêu gọi mọi thành phần dân Chúa hướng đến một đời sống hôn nhân đặt trọng tâm trên giao ước với Thiên Chúa – Đấng là nguồn sự sống đích thực; đồng thời, qua đó, khám phá và đề cao những giá trị Tin Mừng về tình yêu, về sự hiệp thông và những ân ban nhưng không của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu, trong Đức Giêsu và nhờ Đức Giêsu. Nơi Ngài, sự sống của Thiên Chúa ban cho con người được cụ thể hóa một cách sống động qua cung cách sống, cung cách ứng xử, cung cách trao tặng Tình yêu – Một tình yêu đích thực “hy sinh mạng sống cho người mình yêu” (x.Ga 15, 13).
Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình MF

Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

Tâm Thư gửi các gia đình Công giáo của HĐGM Việt Nam

Tâm Thư gửi các gia đình Công giáo của HĐGM Việt Nam



GIA ĐÌNH: ƠN GỌI TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ THƯƠNG XÓT

Anh chị em rất thân mến trong Đức Kitô,

Vì quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình Công giáo trong thế giới ngày nay, từ ngày 4 đến ngày 25 tháng 10 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục để bàn về Gia đình, sau đó, ngày 8 tháng 4 năm 2016, ngài đã ban hành Tông huấn Niềm vui của Tình yêu để hướng dẫn Dân Chúa trong việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình. Tiếp nối giáo huấn của Đức Thánh Cha, trong Thư Chung đầu tháng 10 vừa qua, chúng tôi đã đề nghị một lộ trình mục vụ cho 3 năm (2017-2019) với chủ đề gia đình ở ba khía cạnh khác nhau. Nay, chúng tôi muốn gửi đến anh chị em bức tâm thư để chia sẻ những “vui mừng và hi vọng, ưu sầu và lo lắng” của anh chị em trong đời sống gia đình, cũng như đồng hành với anh chị em trong việc xây dựng gia đình Công giáo trong ánh sáng Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.

VẺ ĐẸP CỦA GIA ĐÌNH

1. Hôn nhân và gia đình gắn liền với chiều dài của cả lịch sử nhân loại, từ lúc tạo thành cho đến tận thế (x. St 4; Kh 21,2.9). Những câu chuyện về gia đình xuất hiện rất nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước. Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong khung cảnh mái ấm gia đình Nazarét, khiêm tốn vâng lời Thánh Giuse và Đức Maria. Khi thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu bày tỏ mối quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình: dấu lạ đầu tiên Người thực hiện là tại tiệc cưới Cana để giúp đôi tân hôn vượt qua khó khăn (x. Ga 2,1-11); Người chia sẻ tình bạn với gia đình ông Lazarô (x. Lc 10,38); đến thăm gia đình ông Phêrô (x. Mc 8,14); chia sẻ nỗi niềm với các gia đình đang chịu thử thách (x. Mc 5,41; Lc 7,14-15). Tất cả đều nói lên vẻ đẹp và tầm quan trọng của hôn nhân và gia đình trong chương trình của Thiên Chúa.

Thật vậy, chính Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ, liên kết cả hai nên một (x. St 2,24; Mt 19,4), một sự hòa hợp sâu xa, cả thân xác lẫn tinh thần, nhờ tình yêu tự nguyện trao ban. Nhờ đó, đôi vợ chồng trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa tình yêu và tham dự vào công trình tạo dựng của Ngài bằng việc sinh sản và giáo dục con cái. Tóm lại, “Hôn nhân Kitô giáo phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh của Người, được thể hiện trọn vẹn trong sự kết hợp giữa người nam và người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu và sự trung thành trong tự do, để thuộc trọn về nhau cho đến chết và mở ra cho việc truyền sinh. Họ được thánh hiến nhờ bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội Thánh tại gia và là men của đời sống mới cho xã hội” ( Niềm vui của tình yêu, 292).

2. Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì cho đến nay, rất nhiều gia đình Công giáo tại Việt Nam đã sống và thể hiện vẻ đẹp này, thực sự là Hội Thánh tại gia khi dựng xây gia đình mình thành cộng đoàn thờ phượng, ngôi nhà hiệp thông, mái ấm nuôi dưỡng và phát triển tình yêu. Những gia đình này đã và đang góp phần rất lớn vào đời sống Hội Thánh bằng việc cống hiến cho Hội Thánh những Kitô hữu nhiệt thành và đạo đức, vun trồng ơn gọi linh mục và tu sĩ. Bản thân các giám mục chúng tôi cũng được lớn lên trong các gia đình đạo đức, nhờ đó hạt giống ơn gọi được nuôi dưỡng và lớn lên trong cuộc đời. Chính vì thế, chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa với các gia đình, đồng thời xác tín rằng gia đình thực sự là con đường Hội Thánh phải đi, và mọi kế hoạch mục vụ của Hội Thánh phải khởi đi từ gia đình (Đại hội Dân Chúa Việt Nam, 2010).

NHỮNG THÁCH ĐỐ CHO GIA ĐÌNH NGÀY NAY

3. Tuy vậy, chúng ta không thể phủ nhận thực tế này là tình trạng vợ chồng Công giáo ly thân và ly dị đang có chiều hướng gia tăng, cách riêng nơi các gia đình trẻ; bạo hành gia đình vẫn là điều nhức nhối; một số bạn trẻ sa đà vào lối sống buông thả về mặt tình dục, chủ trương sống chung, sống thử trước hôn nhân; tệ nạn phá thai lan tràn đến mức coi thường...Vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến những tình trạng đáng buồn trên? Chúng ta có thể làm gì để giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn và thử thách, làm mới lại vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa?

4. Theo Kinh Thánh, ngay từ đầu, gia đình đã bị tổn thương trầm trọng vì tội lỗi. Tương quan vợ chồng được định hình bằng sự thèm muốn và thống trị hơn là yêu thương và phục vụ (x. St 3,16). Tương quan giữa anh chị em trong gia đình cũng bị đổ vỡ nặng nề như Kinh Thánh kể lại: Cain giết em trai mình là Abel, các con của tổ phụ Giacóp ghen tị và tìm cách làm hại người em là Giuse, các con vua Đavít tàn sát lẫn nhau...

Tình trạng này vẫn tiếp diễn trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại và ở mỗi thời đại, lại có những thách đố mới. Trong Tông huấn Niềm vui của tình yêu, Đức giáo hoàng Phanxicô chỉ cho chúng ta thấy những nguyên nhân gây tác động tiêu cực trên đời sống gia đình ngày nay.

5. Trước hết là những khó khăn về mặt kinh tế và xã hội. Trong ba thập niên qua, khi đất nước chuyển từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, đời sống kinh tế phát triển nhưng khoảng cách giàu nghèo cũng gia tăng rất nhanh và rất lớn. Có những người quá nghèo, không công ăn việc làm, không nhà ở, nên cũng không dám kết hôn. Gắn với kinh tế thị trường là tình trạng di dân đã trở thành phổ biến tại Việt Nam, gây tác động lớn trên đời sống gia đình, nhất là những tác động tiêu cực. Vì hoàn cảnh, chồng phải đi làm xa, để vợ và các con ở lại quê nhà; hoặc hai vợ chồng đi làm xa, để các con lại cho ông bà chăm sóc; hoặc cả gia đình đưa nhau lên thành phố, sống trong những khu lao động chật chội. Tất cả đều gây tác động cụ thể trên đời sống vợ chồng cũng như việc giáo dục con cái. Ngoài ra, tình trạng nghiện ngập (ma túy, rượu chè, cờ bạc) cũng như nạn bạo hành đang gieo rắc đau khổ trên biết bao gia đình, không những gây khó khăn cho đời sống kinh tế, mà còn ảnh hưởng trực tiếp lên sự bình an và hạnh phúc của cả nhà.

Bên cạnh đó, trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta không thể không quan tâm đến những tác động của văn hóa thời đại trên các gia đình, cách riêng những gia đình trẻ. Đó là nền văn hóa đề cao cá nhân đến mức cực đoan, ai cũng coi bản thân mình là nhất, từ đó dẫn đến xung đột giữa các thành viên và làm suy yếu những mối liên kết trong gia đình. Đó còn là nền văn hóa đề cao lối sống hưởng thụ, chỉ muốn tiêu xài và thụ hưởng chứ không muốn nhận trách nhiệm. Nền văn hóa này biến quan hệ tình dục thành món hàng mua vui, nhìn người khác như dụng cụ và phương tiện cho mình thỏa mãn, chứ không phải một chủ thể để tôn trọng và yêu thương. Đó cũng là nền văn hóa chủ trương sống nhanh, sống gấp, do đó người ta chỉ muốn những quan hệ mau qua mà không muốn cam kết lâu dài.

6. Hậu quả là tình trạng ly thân, ly dị, gia đình đổ vỡ ngày càng nhiều, để lại những tổn thương tâm lý nặng nề trên đôi bạn, nhất là những tác động xấu trên con cái, từ đó ảnh hưởng đến đời sống chung trong xã hội và Hội Thánh. Đức giáo hoàng Phanxicô đã khẳng định: “Ly dị là một điều xấu và số lượng các vụ ly dị ngày càng gia tăng là điều rất đáng lo ngại. Vì thế, không nghi ngờ gì nữa, nhiệm vụ mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với gia đình là phải củng cố tình yêu của đôi bạn, giúp họ chữa lành những vết thương, để chúng ta có thể ngăn chặn sự lây lan của thảm kịch này trong thời đại chúng ta” (Niềm vui của tình yêu, 246).

HỠI GIA ĐÌNH, HÃY TRỞ THÀNH HỘI THÁNH TẠI GIA

7. Đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha và vì hạnh phúc của các gia đình, chúng tôi tha thiết xin anh chị em hãy kiến tạo gia đình mình thành Hội Thánh tại gia, nghĩa là ngôi nhà thờ phượng, mái ấm tình yêu, ngôi trường giáo dục.

Gia đình là ngôi nhà thờ phượng khi gia đình tràn ngập sự hiện diện của Chúa. Ngài sẽ bước vào ngôi nhà của anh chị em khi mọi người trong nhà cầu nguyện chung, lắng nghe Lời Chúa và mời Chúa đến thăm: “Này Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Do đó việc lập bàn thờ và cầu nguyện chung trong gia đình là điều rất quan trọng với gia đình Công giáo. Những giờ cầu nguyện chung liên kết mọi người trong Chúa, giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi biến cố gia đình, cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và trở nên chứng nhân của Chúa giữa lòng đời. Đây là kinh nghiệm sống động của biết bao gia đình Công giáo để lại cho chúng ta, cũng là lời khuyên nhủ chí tình của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu việt để diễn tả và củng cố đức tin phục sinh. Gia đình có thể dành ít phút mỗi ngày để quy tụ với nhau trước nhan Thiên Chúa hằng sống, nói với Ngài về những lo lắng bận tâm, cầu xin với Ngài cho những nhu cầu của gia đình, cầu nguyện cho ai đang gặp khó khăn, xin Chúa giúp ta biết sống yêu thương, tạ ơn Ngài về sự sống và về bao ơn lành khác, cầu xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ. Với ít lời lẽ đơn sơ thôi, nhưng những phút giây cầu nguyện đó có thể mang lại điều tốt lành lớn lao cho gia đình” (Niềm vui của tình yêu, 318).

Càng sống trong một thế giới xa lạ và thậm chí thù nghịch với đức tin Công giáo, gia đình tín hữu càng phải là “những lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng” giữa thế gian. Đây chính là cách chúng ta thực thi chức tư tế do Phép Rửa “trong việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ ơn, qua chứng từ đời sống thánh thiện, sự từ bỏ, lòng bác ái sống động” (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1657).

8. Gia đình còn là mái ấm của tình yêu và lòng thương xót. Trong thông điệp Niềm vui của tình yêu, Đức giáo hoàng Phanxicô dành phần lớn của chương bốn để suy tư về tình yêu trong hôn nhân, dựa vào Bài ca Đức Ái (1Cr 13). Theo đó, gia đình là nơi mỗi chúng ta cảm nghiệm, học tập và vun đắp tình yêu chân thật.

Đó là tình yêu kiên nhẫn, biết đón nhận người khác như họ là;
tình yêu phục vụ, không chỉ bằng cảm tính hay lời nói nhưng bằng hành động cụ thể;
tình yêu không ghen tị, nhưng trân trọng thành quả của người khác;
tình yêu không khoe khoang tự phụ, không coi mình hơn người khác;
tình yêu dịu dàng, không cứng cỏi;
tình yêu quảng đại, cho đi mà không tính toán;
tình yêu tha thứ, biết tìm hiểu người khác để thông cảm và tha thứ hơn là soi mói;
tình yêu vui với niềm vui của người khác, chứ không vui vì sự thất bại của họ;
tình yêu chịu đựng, giữ gìn miệng lưỡi, tránh xét đoán và nói xấu;
tình yêu tin tưởng tất cả nên không tìm cách thống trị nhưng tôn trọng người khác;
tình yêu hi vọng tất cả vì Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng bằng những nét cong;
tình yêu chịu đựng tất cả với thái độ tích cực.

9. Là mái ấm tình yêu và lòng thương xót, gia đình phải là nơi đón nhận và trân trọng sự sống. Tự bản chất, tình yêu vợ chồng hướng đến việc sinh sản. Con cái không phải là điều gì đó được thêm vào cách ngẫu nhiên, nhưng phát xuất từ chính tâm điểm của tình yêu, là hoa trái và sự phong phú của tình yêu. Chính vì thế, gia đình được coi là cung thánh của sự sống. Vì giá trị tối thượng của sự sống và vì quyền sống của con người ngay từ giây phút khởi đầu, không ai và không điều gì có thể biện minh cho việc tước đoạt sự sống của các thai nhi. Trong hai thập niên qua, chúng ta phải đau lòng nhìn nhận rằng tình trạng phá thai ngày càng trở thành phổ biến và gia tăng tại Việt Nam, kể cả trong một số gia đình Công giáo. Với ơn Chúa, anh chị em hãy can đảm dứt khoát với hành động phá thai, trở thành người xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống, thay cho nền văn minh thù hận và văn hóa chết chóc.

Trong mái ấm của tình yêu và lòng thương xót, không thể không nói đến bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Không ai trong chúng ta tự ban sự sống cho mình nhưng đều đón nhận sự sống từ Thiên Chúa qua cha mẹ. Vì thế, nếu sự sống là hồng ân lớn lao nhất chúng ta lãnh nhận, thì hiếu thảo với cha mẹ cũng phải là bổn phận căn bản của đạo làm con. Không lạ gì trong Mười Điều Răn, bổn phận thảo kính cha mẹ chỉ đứng sau điều răn thờ phượng Chúa và dẫn đầu những điều răn khác trong tương quan với tha nhân. Lòng hiếu thảo này được thể hiện qua sự vâng phục cha mẹ (x. Cn 6,20-22), cũng như qua trách nhiệm trợ giúp cha mẹ về vật chất và tinh thần khi các ngài về già hoặc đau yếu (x. Hc 3,2-6).

Cũng ở đây, cần phải nói đến bổn phận chăm sóc người cao tuổi, vốn là nét đẹp truyền thống trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời đại quá đề cao thành công vật chất và hiệu năng sản xuất ngày nay, người ta có khuynh hướng coi người già như gánh nặng của xã hội và muốn loại ra bên lề. Chúng ta cần phải có cách nhìn tích cực hơn về vai trò của người cao tuổi. Thật vậy, người già là ký ức của lịch sử, sợi dây nối kết các thế hệ, người truyền lại kinh nghiệm và sự khôn ngoan cho con cháu. Vì thế, một gia đình không biết trân trọng người già thì gia đình đó đang trên đà suy thoái; ngược lại, gia đình tôn quý người cao tuổi là gia đình có tương lai bền vững.

10. Gia đình cũng là ngôi trường giáo dục đầu tiên và căn bản. Ngày nay, nói đến giáo dục, người ta thường chỉ nghĩ đến giáo dục tại học đường mà quên rằng giáo dục là bổn phận đầu tiên và cao cả nhất, cũng là quyền ưu tiên của gia đình, nhất là về mặt nhân bản, đạo đức và đức tin tôn giáo.

Gia đình là ngôi trường đầu tiên dạy những giá trị nhân bản. Những năm tuổi thơ trong gia đình sẽ hình thành những khuynh hướng căn bản, ăn rễ sâu và kéo dài trong suốt cuộc đời còn lại. Gia đình cũng là nơi trẻ thơ tập sống mối liên hệ với người khác, tập lắng nghe và tôn trọng tha nhân; nhờ đó, khi bước vào đời sống xã hội, các em sẽ sống tử tế và hòa hợp với mọi người, thay cho lối sống ích kỷ và chỉ tìm cách thống trị người khác.

Song hành với giáo dục nhân bản là giáo dục đạo đức. Trong bối cảnh xã hội được coi là xuống cấp trầm trọng về mặt đạo đức, chúng ta càng phải quan tâm hơn đến lãnh vực này. Chính các bậc cha mẹ phải tập cho con những thói quen tốt, hình thành những nguyên tắc và luật lệ trong đời sống, học cách sử dụng tự do cách khôn ngoan và đúng đắn. Để được như thế, cha mẹ cần tạo được sự tin tưởng của con cái và cách giáo dục tốt nhất chính là cách sống và gương sáng hằng ngày của cha mẹ.

Trong lãnh vực này, thiết nghĩ cần phải có cái nhìn đúng đắn và tích cực về việc sửa dạy con cái. Việc sửa dạy đích thực không phát xuất từ sự giận dữ nhưng từ tình yêu thương, giúp trẻ ý thức rằng làm sai sẽ dẫn đến hậu quả xấu, do đó phải biết xin lỗi và đền bù những thiệt hại gây ra. Việc sửa dạy như thế phải đi đôi với việc nhìn nhận những điều tốt lành con cái làm, để khuyến khích chúng. Ngoài ra, trong thời đại ngày nay, các bậc cha mẹ không thể không lưu tâm đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông. Phải giúp con cái tập làm chủ những phương tiện này thay vì làm nô lệ của thế giới ảo đến nỗi xa rời thế giới thực, không quan tâm con người thật ngay trong gia đình.

Ngoài ra, với các bậc cha mẹ Công giáo, lãnh vực rất quan trọng phải quan tâm là giáo dục đức tin. Có thể nói gia đình là nơi mỗi chúng ta khám phá ý nghĩa và cảm nhận vẻ đẹp của đức tin. Đã hẳn đức tin là ơn ban của Chúa chứ không do chúng ta, thế nhưng cha mẹ là khí cụ Chúa dùng để làm cho mầm sống đức tin đó lớn lên và phát triển. Vì thế cha mẹ hãy tập cho con ngôn ngữ đức tin từ những việc nhỏ bé nhất như tập làm dấu Thánh Giá, đọc kinh Lạy Cha và Kính Mừng, hôn ảnh Chúa và Đức Mẹ...Hạt giống gieo xuống tuy nhỏ bé nhưng mai này sẽ thành cây to (x. Mt 13,31-32). Đừng quên rằng trẻ em cần những biểu tượng, hành động, chuyện kể, hơn là những lý luận trừu tượng. Vì thế, những giờ kinh gia đình và những việc đạo đức có giá trị hơn nhiều bài giáo lý. Đồng thời, để phát triển đời sống đức tin nơi con cái, cha mẹ cũng cần khuyến khích con tham gia các lớp giáo lý và sinh hoạt đạo đức tại giáo xứ. Những sinh hoạt này không những giúp con cái chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết đức tin, mà còn làm phát triển nơi các em ý thức về Hội Thánh cũng như những kỹ năng sống trong xã hội.

GIA ĐÌNH VÀ SỨ VỤ THƯƠNG XÓT

11. Chúa Giêsu một đàng đưa ra lí tưởng rất cao về đời sống hôn nhân và đàng khác, Người lại bày tỏ sự cảm thông và gần gũi trước những yếu đuối của con người như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria hoặc người nữ phạm tội ngoại tình. Theo gương Chúa Giêsu, các gia đình Công giáo được kêu gọi chăm sóc mục vụ cho các gia đình khác: “Nhờ ân sủng của bí tích Hôn nhân, các gia đình Kitô hữu là chủ thể chính của mục vụ gia đình, nhất là khi họ cống hiến chứng tá đầy vui tươi của đôi vợ chồng và gia đình, Hội Thánh tại gia” (Niềm vui của tình yêu, 200). Với trách nhiệm chủ chăn, chúng tôi xin gửi đến anh chị em những đề nghị sau đây:

Đồng hành với những gia đình di dân: Ngày nay, vì hoàn cảnh kinh tế, rất nhiều gia đình phải rời bỏ làng quê để tìm kế sinh nhai trong những thành phố lớn. Chỉ có một số ít thành công, còn phần lớn gặp nhiều khó khăn trong việc làm ăn, sinh hoạt gia đình, giáo dục con cái. Về mặt đức tin, nhiều khi họ cũng gặp khó khăn trong việc hội nhập cộng đoàn giáo xứ mới. Vì thế, chúng ta phải mở rộng vòng tay đón tiếp, để các gia đình di dân cảm nhận cộng đoàn giáo xứ là nhà của họ, nơi đó đức tin được nuôi dưỡng, lòng mến được vun trồng, và tin tưởng bước tới tương lai ngay giữa những khó khăn thử thách.

Đồng hành với những cặp hôn nhân khác đạo: Tại Việt Nam, tỷ lệ người Công giáo chỉ là 7%, hơn nữa các bạn trẻ ngày nay không còn sống trong những ngôi làng hoặc khu vực tập trung người Công giáo, nhưng sống và làm việc trong những môi trường chỉ có rất ít người Công giáo, do đó việc kết hôn giữa người Công giáo và người ngoài Công giáo sẽ gia tăng. Trong những gia đình này, có những khó khăn riêng do việc không cùng niềm tin tôn giáo, ảnh hưởng đến việc giữ đạo của người Công giáo cũng như việc giáo dục con cái trong gia đình. Vì thế, chúng ta cần đồng hành với những gia đình này, để nâng đỡ người (vợ hoặc chồng) Công giáo trong đời sống đức tin, hơn thế nữa, để họ có thể làm chứng cho Tin Mừng và giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người trong gia đình.

Đồng hành với những gia đình bị đổ vỡ: Hội Thánh luôn mong muốn các đôi vợ chồng sống chung với nhau đến trọn đời. Ly thân và ly dị chỉ được xem như lối thoát cuối cùng, sau khi mọi nỗ lực hòa giải đã thất bại. Tuy nhiên nhiều người rơi vào tình trạng này vì hoàn cảnh bất đắc dĩ chứ không hoàn toàn do lỗi riêng của họ. Vì thế chúng ta cần cảm thông và đồng hành hơn là loại trừ họ, cách riêng trong việc nuôi dạy con cái, vì trẻ thơ chính là thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất do những cuộc ly thân và ly dị: “Chăm sóc cho những người như thế không làm cho đức tin của cộng đoàn và việc làm chứng cho sự bất khả phân li của hôn nhân bị suy yếu đi, trái lại, chính trong sự chăm sóc này mà cộng đoàn thể hiện đức ái của mình” (Niềm vui của tình yêu, 243).

12. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Giáo hoàng Phanxicô dạy: “Thương xót không phải là một từ trừu tượng nhưng là một lối sống. Nói về lòng thương xót là một chuyện, còn sống lòng thương xót lại là chuyện khác. Dựa vào lời Thánh Giacôbê Tông đồ, chúng ta có thể nói: thương xót mà không có việc làm thì coi như đã chết”. Trong truyền thống lâu đời của Hội Thánh, những công việc của lòng thương xót gồm những việc về phần xác và về phần hồn. Những việc về phần xác là: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, chôn xác kẻ chết. Những việc về phần hồn là: lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

Anh chị em hãy làm gương cũng như tập cho con cái làm những việc của lòng thương xót. Chính những công việc đó sẽ huấn luyện con cái chúng ta trở nên những con người có lòng thương xót, biến đổi gia đình chúng ta thành ngôi nhà của lòng thương xót, góp phần làm chứng và giới thiệu dung nhan Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.

13. Ngoài ngôi nhà của mỗi gia đình, chúng ta còn phải quan tâm đến ngôi nhà chung của mọi gia đình là trái đất, “người chị mà chúng ta đang chung phần sự sống, người mẹ tuyệt vời luôn mở rộng vòng tay ôm ấp chúng ta” (Laudato si, 1). Trái đất này “đang kêu khóc vì những tổn hại chúng ta gây ra do việc sử dụng vô trách nhiệm và lạm dụng những tài nguyên Thiên Chúa ban tặng” (Laudato si, 2). Ngày nay, người dân Việt Nam đang phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do tình trạng ô nhiễm môi sinh. Cá chết dọc bờ biển miền Trung, hạn hán tại các tỉnh Tây nguyên và Nam Trung bộ, ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long... là những điều được mọi người quan tâm. Các nhà khoa học cho thấy con người là thủ phạm chính gây ra tình trạng biến đổi khí hậu qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên cách thiếu trách nhiệm. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế đang nỗ lực để đạt đến thỏa thuận chung về việc giảm bớt khí thải nhà kính.

Đây là vấn đề rất lớn, đòi hỏi những chính sách ở tầm vĩ mô, tuy nhiên các giám mục Á châu cho rằng các gia đình có thể đóng góp hữu hiệu vào việc chăm sóc môi trường sống bằng những việc nhỏ bé hằng ngày: tiết kiệm nước, dùng loại đèn ít tiêu hao năng lượng, rút dây khỏi ổ cắm điện khi không sử dụng, không đốt lá và rác thải, không xả rác ngoài đường phố, không sử dụng hóa chất độc hại trong canh tác và sản xuất... Nếu mỗi gia đình đều ý thức và giữ gìn như thế, thì những việc nhỏ bé hằng ngày trong mỗi gia đình sẽ trở thành nguồn lực lớn trong việc chống ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất đai, ô nhiễm không khí, và giữ gìn môi trường sống trong lành cho mọi người, hôm nay cũng như thế hệ mai sau.

*****

14. Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Cha trên trời, cội nguồn mọi ân phúc, và thưa với Ngài:

Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu,
là cội nguồn của mọi gia đình dưới đất.
Tạ ơn Cha đã thương ban cho gia đình nhân loại,
mẫu gương tuyệt vời của Thánh Gia Thất.
Xin Cha ban ơn Phúc-Âm-hóa mọi gia đình,
giúp đưa ánh sáng Tin Mừng Cứu độ,
là ánh sáng chân lý, yêu thương và bình an,
vào mọi lãnh vực đời sống gia đình chúng con.
Cho gia đình trở nên cái nôi của sự sống,
mái ấm của tình thương bao dung và hợp nhất,
ngôi trường giáo dục nên người tốt và hữu ích,
thành trì che chở phẩm giá của mọi người.
Cho mọi tư tưởng và việc làm của vợ chồng,
mang lại an hòa hạnh phúc cho gia đình.
Cho các bạn trẻ tìm gặp nơi ông bà, cha mẹ,
nguồn hỗ trợ cho sự phát triển phẩm giá làm người.
Xin Thánh Gia Thất phù hộ gia đình chúng con,
vững vàng tin yêu trong mọi gian lao thử thách,
và loan báo Chúa Giêsu Kitô là nguồn sống mới,
cho mọi gia đình, bây giờ và mãi mãi. Amen.

Lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ, ngày 20 tháng 11 năm 2016

Tổng thư ký HĐGMVN
(đã ký)
+Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Giám mục GP. Mỹ Tho

Chủ tịch HĐGMVN
(đã ký)
+Giuse Nguyễn Chí Linh
Tổng giám mục TGP. Huế