Ý Nghĩa “Hành Hương” Của Người Công Giáo
I. HÀNH HƯƠNG
1. Hành hương là gì
Hành
hương là một phong tục tôn giáo xuất hiện từ rất sớm trong các tôn giáo cổ và
có lẽ nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
Trong
Phật giáo, hành hương là một nghi thức thắp hương sau đó đi nhiễu xung quanh
điện phật và xung quang tháp hoặc chỉ là việc thắp hương để lễ bái trước tượng
bồ tát, tượng phật… Đây chính là khái niệm nguyên thủy nhất của hành hương.
Theo từ
điển tiếng việt, thì hành hương được hiểu là chuyến đi của các tín đồ tôn giáo
tới những nơi linh thiêng với hy vọng sẽ được xá tội, hay được ân huệ, hoặc
được siêu thoát.
Theo từ
điển Việt – Soha , thì hành hương là một hoạt động tâm linh của những người
sùng đạo, họ đi đến những nơi xa xôi được gọi là linh thiêng như đền, chùa… để
cúng bái cho thỏa sự ngưỡng vọng.
Nói
chung, hành hương là một cuộc lữ hành của các tín đồ thuộc nhiều tôn giáo khác
nhau về nơi được cho là thánh thiêng để kính viếng, cúng bái…Đây là cách mà một
tín đồ bày tỏ lòng thành của mình đối với một tôn giáo.
2. Ý nghĩa và mục đích của việc hành hương
“ Trong
lịch sử Kitô giáo, vào thời Trung cổ, bên Âu châu, các cuộc hành hương thường
mang tính cách đền tội, do những vất vả nhọc mệt gây ra bởi đường sá xa xôi
cũng như do những nguy hiểm dọc đường… Vào thời đó, các cuộc hành hương thường
được thực hiện bằng việc đi bộ, trừ khi nào sang sông vượt biển thì mới dùng
thuyền hoặc tàu.”( theo linh mục Phan Tấn Thành)
– Thể hiện
lòng yêu mến với một tôn giáo nào đó.
– Để cầu
nguyện, xin ơn
II. HÀNH HƯƠNG KITÔ GIÁO
“Trong
tiếng La-tinh cổ, “người hành hương”, pelegrīnus, thường được dịch là “người
khách lạ”, “người lữ hành”. Thật ra, pelegrīnus là từ được tạo nên bởi hai
thành tố: “per” nghĩa là “ngang qua”, và “ager” nghĩa là “cánh đồng”. Điều này
mang đến cho người hành hương nhiều thách đố và hy vọng. Thách đố vì trong hành
hương đòi người ta phải dấn thân, phải dám băng qua những khó khăn, chẳng hạn
về địa lý hay tâm lý. Hy vọng vì đích đến là nơi người hành hương có thể gặp gỡ
tha nhân và Thiên Chúa.
Hành
hương (Pilgrimage) có một lịch sử tôn giáo từ thời xa xưa. Khi đó người Do Thái
hành hương về Đền Thờ đầu tiên của họ tại Giêrusalem (được xây 957 TCN) để mừng
ba lễ lớn: Vượt Qua (Passover), Lễ Ngũ Tuần (Pentecost), và Lễ Lều (Festival of
Ingathering). Trên đường đi, họ hát những bài hành hương, hoặc thánh vịnh.
Chẳng hạn:
“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
‘Ta cùng trẩy lên Đền Thánh Chúa!’
Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
cửa nội thành ta đã dừng chân…” [1] (Tv 122,1-2).
Như vậy, đối với người Ki-tô hữu, hành
hương là rời khỏi nơi mình ở để đến một nơi linh thiêng nào đó liên quan đến
Chúa ( đất Palestina), Đức Mẹ ( Fatima, Lộ Đức…) hay một vị thánh nào đó.
Ngoài ra,
việc hành hương không chỉ giới hạn ở việc thực hiện một cuộc hành hương đúng
nghĩa về mặt thể lý là đến những linh địa, đền thánh mang những dấu ấn đặc
biệt, có khả năng khơi dậy những cảm xúc đạo đức về mặt tâm linh, mà việc hành
hương vẫn mang trọn ý nghĩa và lợi ích thiêng liêng khi đến những nhà thờ, nhà
nguyện hay một địa điểm nào đó được chỉ định trong Năm Thánh của từng giáo hội
địa phương.
Hành
hương vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là hành động biểu lộ lòng biết ơn đối
với Thiên Chúa vì muôn ơn lành Người đã thương ban cho mỗi người, mỗi gia đình
chúng ta qua Hội Thánh,
Hành
hương là dịp để chúng ta có thể nhận lãnh ơn toàn xá, đền bù lại những hình
phạt mà tội của chúng ta đã gây ra, hoặc chỉ ơn xá cho các linh hồn nơi luyện
tội. Nhưng điều quan trọng hơn là nhờ ơn Chúa ban, chúng ta can đảm từ bỏ con
người cũ, mà hân hoan tiến bước trên đường trọn lành.
III. LINH ĐẠO CỦA VIỆC HÀNH HƯƠNG
Sách “
Hướng dẫn về Lòng Đạo Đức Bình Dân và Phụng Vụ” của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí
Tích xác định Linh đạo đặc thù của việc hành hương gồm 5 chiều kích [2] sau:
1. Chiều kích Cánh Chung
“Chiều
kích chính yếu này là nguồn gốc của việc hành hương : đó là một cuộc “đi lên
Đền Thánh”, nghĩa là một thời điểm và một ẩn dụ về con đường dẫn đưa tới Nước
Trời. Thực thế, cuộc hành hương giúp người tín hữu nhận thức chiều kích cánh
chung của đời mình với tư cách là một người đã chịu phép rửa. Người tín hữu là
một khách lữ hành, mà sự hiện hữu lại ở giữa bóng tối của niềm tin và sự khao
khát thấy thực tại muôn đời, ở giữa giới hạn chật hẹp của thời gian và khát
vọng một cuộc sống vĩnh hằng, ở giữa sự mệt nhọc phải bước đi trên đường và sự
đợi chờ được an nghỉ luôn mãi, ở giữa nước mắt chốn lưu đầy với ước mong hạnh
phúc nơi quê hương trên trời, ở giữa sự xôn xao của cuộc đời hoạt động và niềm
say mê sự thanh thản của chiêm niệm.
“…Khách
hành hương nhận ra rằng : ‘trên đời này chúng ta không có thành trì nào bền
vững’ (Dt 13,14), vì thế, ngoài mục đích trước mắt là Đền Thánh, người ấy tiến
bước qua sa mạc của cuộc đời, hướng về Nước Trời là Đất Hứa đích thực.” Với
nhiều tín hữu, đây cũng là “một cơ hội đặc biệt thuận lợi để tiếp cận Bítích
“Khi cuộc
hành hương được thực hiện đúng cách, người tín hữu sẽ rời ngôi đền thánh với
quyết tâm ‘thay đổi cuộc đời’, nghĩa là hướng cuộc đời mình về Thiên Chúa một
cách cương quyết hơn ; như thế, người hành hương ước mong đem lại cho cuộc sống
của mình một chiều kích siêu việt hơn.”
2. Chiều kích Lễ hội.
“Trong
cuộc hành hương, chiều kích Sám Hối đi đôi với chiều kích lễ hội. Người ta thậm
chí có thể xác quyết, chiều kích lễ hội nằm ngay trung tâm của cuộc hành
hương.”
3. Chiều kích Phụng tự
“Hành
hương chủ yếu là một việc phụng tự: khi tiến bước về ngôi Đền Thánh, người hành
hương đến gặp gỡ Thiên Chúa để hiện diện trước tôn nhan Người, thờ lạy Người và
cởi mở tấm lòng ra với Người… Lời cầu nguyện của họ mang chiều kích rất đa dạng
: ca ngợi và tôn thờ Chúa vì lòng nhân từ và sự thánh thiện của Ngài ; cảm tạ
vì những ân huệ đã lãnh nhận ; cầu nguyện nhằm thực hiện một lời khấn đã cam
kết trước nhan Chúa ; cầu nguyện để được các ơn lành cần thiết cho cuộc
sống;cầu nguyện để xin Chúa tha thứ những tội lỗi đã phạm”.
4. Chiều kích Tông Đồ
“…
cuộc hành hương là một việc loan báo đức tin,và khách hành hương là những ‘sứ
giả lưu động của Chúa Kitô’.”
5. Chiều kích Hiệp Thông
“Người
hành hương đi đến đền thánh, hiệp thông trong lòng tin và đức ái, không chỉ với
những kẻ cùng đi với mình trong ‘cuộc hành trình thánh’ (Tv 84,6) mà còn với
chính Chúa nữa…” Họ cũng hiệp thông với cộng đoàn địa phương của mình và qua
cộng đoàn ấy với toàn thể Hội Thánh, tức là với các thánh trên trời. Họ cùng
hiệp thông với toàn thể nhân loại mà những nỗi đau khổ và niềm hy vọng được đưa
vào lời cầu nguyện.
Cát Đằng
WGPKT(12/11/2021) KONTUM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét